Hạn Chế Và Định Hướng Nghiên Cứu Trong Tương Lai


nhận thức người lao động về bảo vệ môi trường, TNXH, đóng góp cộng đồng. Đây cũng là một trong những cách để doanh nghiệp thu hút và giữ chân người tài.

TNXH ở khía cạnh môi trường

Qua kết quả thực nghiệm ở chương 3, TNXH ở khía cạnh môi trường có tác động tích cực đến thành quả hoạt động của doanh nghiệp, đặc biệt ở khía cạnh quy trình nội bộ. Do đó, thực hiện tốt TNXH đối với môi trường không chỉ giúp doanh nghiệp góp phần bảo vệ môi trường, hệ sinh thái, hướng đến phát triển bền vững mà còn mang lại lợi ích cho doanh nghiệp trong việc nâng cao thành quả hoạt động quy trình nội bộ dẫn đến tăng cao thành quả tài chính.

Trước hết, nhằm tăng cường việc tiết kiệm, kiểm soát và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên, doanh nghiệp cần tìm ra các giải pháp về kỹ thuật

- công nghệ như tìm hiểu, đầu tư xây dựng các mô hình ứng dụng năng lượng mới, năng lượng sạch và năng lượng tái tạo (biomass, biogas, năng lượng mặt trời,…), hoàn thiện công nghệ sản xuất với các thiết bị dây chuyền công nghệ sạch và sử dụng chu trình khép kín để ứng dụng vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Đây được xem là một trong những biện pháp chủ yếu và hiệu quả để tiết kiệm nguồn tài nguyên thiên nhiên, giảm thiểu các tác động tiêu cực gây ô nhiễm môi trường.

Hơn nữa, tăng cường nghiên cứu khoa học và công nghệ môi trường, đào tạo cán bộ chuyên gia về môi trường là giải pháp hỗ trợ bảo vệ môi trường đạt được hiệu quả ngày càng cao hơn. Các doanh nghiệp cần nghiên cứu và giáo dục người lao động về "quản lý chất thải", nhằm nâng cao chất lượng của các doanh nghiệp đối với việc xử lý chất thải trong quá trình sản xuất, hạn chế tối đa việc gây ô nhiễm môi trường. Doanh nghiệp cần tăng cường hợp tác với các tổ chức, đơn vị trong lĩnh vực đào tạo nhằm tăng cường năng lực cho đội ngũ cán bộ hoạt động trong lĩnh vực sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả

Đối với các doanh nghiệp thương mại – dịch vụ, thực hiện các giải pháp để nhân viên chủ động sáng tạo nghiên cứu công nghệ môi trường, các hoạt động góp phần giảm tác động tiêu cực đến môi trường như thu gom rác thải, vệ sinh môi trường làm việc, trao giải thưởng sáng tạo tiết kiệm năng lượng và vệ sinh an toàn lao động.


Bên cạnh đó, đầu tư cho công tác truyền thông, thông tin, tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức về tiết kiệm năng lượng trong đơn vị, tạo thành văn hoá sử dụng năng lượng hiệu quả là một trong những giải pháp doanh nghiệp cần lưu ý.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 279 trang tài liệu này.

TNXH ở khía cạnh kinh tế

Thực hiện TNXH không chỉ là đảm bảo các vấn đề về xã hội, bảo vệ môi trường mà còn liên quan đến tiêu chí “hoạt động kinh doanh có hiệu quả kinh tế”. Từ kết quả nghiên cứu ở Chương 3, TNXH ở khía cạnh kinh tế có tác động lớn nhất đến thành quả ở khía cạnh tài chính. Vì vậy, việc thực hiện tốt TNXH doanh nghiệp chính là đầu tư cho chiến lược kinh doanh dài hạn và tăng trưởng bền vững của doanh nghiệp.

Nghiên cứu về tác động của trách nhiệm xã hội đến thành quả hoạt động của các doanh nghiệp ở Việt Nam - 22

Để TNXH ở khía cạnh kinh tế được đảm bảo, doanh nghiệp cần lập kế hoạch chiến lược về TNXH. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp nên lập kế hoạch chiến lược về TNXH, vì chỉ khi có chiến lược, doanh nghiệp mới xác định rõ mục tiêu cũng như con đường để thực hiện TNXH một cách chủ động và mang tính lâu dài. Trong công tác lập kế hoạch chiến lược, ban quản trị công ty với sự giúp sức của đội chuyên trách về TNXH có thể thực hiện một số bước sau: Xác định tầm nhìn về TNXH; Phân tích thực trạng TNXH của doanh nghiệp và các yếu tố môi trường tác động để xác định thứ tự ưu tiên của các vấn đề liên quan đến TNXH của doanh nghiệp, những điều kiện về nguồn lực dành cho việc thực hiện TNXH; Đề xuất một số giải pháp tổng thể để thực hiện TNXH doanh nghiệp.

Xây dựng kế hoạch trả lương phù hợp với khả năng tài chính và chiến lược đánh giá kết quả lao động hợp lý và khoa học để vừa tạo động lực cho người lao động, vừa đảm bảo an sinh, phúc lợi.

Gắn các kế hoạch phát triển kinh doanh với phát triển kinh tế địa phương, cộng đồng, hướng đến các sản phẩm đóng góp cho sự phát triển chung, tạo ra việc làm cho người dân địa phương, ưu tiên lựa chọn các nhà cung cấp tại nơi doanh nghiệp đặt trụ sở, sử dụng các nguồn nguyên vật liệu tại chỗ trong sản xuất để thúc đẩy kinh tế tại địa phương phát triển.


Tạo ra văn hoá liêm minh, chính trực, trước hết là công bố thông tin minh bạch đối với công ty cổ phần, hoặc bộ quy tắc ứng xử, quy trình kiểm soát chặt chẽ để phòng chống tham nhũng trong nội bộ tổ chức.

Thực hiện việc đầu tư có chọn lọc trong việc lựa chọn các tổ chức tư vấn thiết kế, thử nghiệm, kiểm toán năng lượng, tư vấn hệ thống quản lý năng lượng và các hoạt động tư vấn khác. Có kế hoạch tài chính phù hợp để xây dựng nguồn ngân sách thực hiện các chương trình về TNXH, có thể được trích từ tiết kiệm chi phí trong các hoạt động sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả hàng năm và từ nguồn ngân sách trong kế hoạch đầu tư.

- Về thành quả hoạt động

Mối quan hệ nhân quả, yếu tố dẫn đạo – theo sau (lead – lag) giữa thành quả hoạt động của các khía cạnh được tìm thấy trong kết quả nghiên cứu ở chương 3 là H5 được chấp nhận. Điều này tạo thêm minh chứng để khuyến nghị các doanh nghiệp không chỉ tập trung vào các giải pháp nâng cao thành quả tài chính mà còn đẩy mạnh tăng cao thành quả ở các khía cạnh phi tài chính để gia tăng sự tác động tích cực đến thành quả tài chính trong dài hạn. Trong đó thành quả ở khía cạnh học hỏi và phát triển được xem là cái gốc của vấn đề, để thúc đẩy thành quả ở khía cạnh quy trình nội bộ, từ đó nâng cao thành quả ở khía cạnh khách hàng.

Đối với việc nâng cao thành quả ở khía cạnh học hỏi và phát triển, cần chú trọng đến việc đào tạo nhân viên, tạo môi trường làm việc tốt để thu hút và giữ chân nhân viên giỏi.

Để thành quả ở khía cạnh quy trình nội bộ, cần thiết phải đẩy mạnh sự đổi mới, cải tiến trong hoạt động của doanh nghiệp, xem đây là mấu chốt để gia tăng hiệu quả sản xuất và đạt được thành quả cao.

Ở khía cạnh khách hàng, tập trung vào việc đáp ứng sự thoả mãn và hài lòng của khách hàng về chất lượng sản phẩm/dịch vụ. Từ đó, có những chính sách phù hợp về giá cả, dịch vụ chăm sóc khách hàng để thu hút khách hàng.

- Về quản trị doanh nghiệp nhằm gia tăng sự tác động của TNXH đến thành quả hoạt động


Để tăng cường sự gắn kết nhằm gia tăng sự tác động của TNXH đến thành quả hoạt động của doanh nghiệp, cần thiết thành lập bộ phận chức năng về TNXH. Từ đó, có sự phân công trách nhiệm quản lý TNXH một cách rõ ràng. Tại một số công ty lớn như Công ty Cổ phần Sữa Việt Nam, Công ty Tập đoàn Vingroup,…đã có bộ phận tuân thủ về TNXH. Vì vậy, việc thực hiện TNXH của doanh nghiệp được lồng ghép vào chiến lược phát triển và chương trình hành động của công ty, giúp cho việc thực hiện TNXH mang tính bền vững, xuyên suốt quá trình phát triển của doanh nghiệp. Tuy nhiên, ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ thì hầu hết là chưa có bộ phận này, giám đốc, kế toán trưởng sẽ là người kiêm nhiệm quản lý các hoạt động TNXH. Do đó, bộ phận chức năng TNXH nên được thành lập ở các doanh nghiệp lớn; phân công trách nhiệm cụ thể cho các cá nhân quản lý TNXH trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đối với bộ phận chức năng TNXH sẽ đưa ra các chính sách, mục tiêu về TNXH để triển khai thực hiện, đồng thời cũng là bộ phận giám sát, kiểm tra để đánh giá kết quả về việc thực hiện TNXH ở doanh nghiệp. Khi có quy chế rõ ràng, minh bạch, bộ phận chức năng về TNXH sẽ phát huy vai trò của mình và ngày càng cải thiện chất lượng các hoạt động TNXH làm tăng hiệu quả hoạt động cho doanh nghiệp. Tại các doanh nghiệp nhỏ và vừa, nhân viên phụ trách TNXH có trách nhiệm nghiên cứu các quy định, quy chế mới về TNXH để cập nhật và truyền đạt cho nhân viên trong công ty để công ty thực hiện TNXH tốt hơn, góp phần nâng cao thành quả hoạt động của doanh nghiệp. Xây dựng chương trình phát triển bền vững trong đó có nội dung thực hiện TNXH của doanh nghiệp. Chương trình này do chính tổng giám đốc hoặc nhà quản trị cấp cao điều hành, các thành viên là đại diện các bộ phận đơn vị có liên quan. Nhờ đó, TNXH được lồng ghép vào tất cả các chương trình hoạt động của các bộ phận, đơn vị và cả doanh nghiệp.

Doanh nghiệp nên xây dựng bộ quy tắc ứng xử về TNXH liên quan đến các nội dung: Kinh tế, Môi trường, Xã hội, trong đó đảm bảo quyền lợi ích của các bên có liên quan như người lao động, nhà cung cấp, môi trường, cộng đồng, khách hàng, nhà đầu tư… Khi doanh nghiệp ban hành văn bản cụ thể về quy tắc ứng xử thì nhân viên sẽ có căn cứ cụ thể để điều chỉnh hành vi của mình đảm bảo các điều kiện để


doanh nghiệp đạt được mục tiêu kinh doanh và định hướng phát triển bền vững. Xây dựng bộ quy tắc ứng xử về TNXH là nền tảng ban đầu để hình thành văn hoá doanh nghiệp “xanh”. Vì hành động thường xuyên sẽ trở thành thói quen cho nhân viên và trong dài hạn sẽ tạo ra văn hoá riêng cho doanh nghiệp góp phần giúp doanh nghiệp phát triển bền vững trong tương lai. Qua nhiều kênh khác nhau cần tăng cường thông tin, tuyên truyền để mọi người hiểu đúng bản chất của vấn đề "TNXH của doanh nghiệp" và các Bộ Quy tắc ứng xử, nhất là trong các doanh nghiệp, các nhà quản lý, hoạch định chính sách vĩ mô.

Tăng cường cam kết của người lao động với các hoạt động TNXH: con người là trung tâm của mọi hoạt động, mọi đơn vị. Một khi doanh nghiệp có sự cam kết của người lao động càng cao thì sẽ mang lại năng suất lao động cao, thành quả hoạt động tốt hơn. Các hoạt động thể hiện TNXH của doanh nghiệp có sự cam kết tham gia của toàn thể nhân viên. Do vậy, doanh nghiệp cần có các hoạt động đào tạo, tuyên truyền, khuyến khích người lao động chủ động thực hiện các bộ quy tắc ứng xử về TNXH nhằm tăng cường sự hài lòng của nhân viên và cam kết cống hiến lâu dài của người lao động.

4.2.2. Đối với các nhà hoạch định chính sách

Ở cấp độ vĩ mô, quốc gia có thể hưởng nhiều lợi ích khi các doanh nghiệp thực hiện TNXH, hướng đến mục tiêu phát triển bền vững. Vì vậy, chính phủ cần tiếp tục bổ sung và hoàn thiện hệ thống pháp luật hiện hành ở Việt Nam để tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc thực hiện TNXH. Bên cạnh đó, việc thực hiện TNXH doanh nghiệp cần có sự quan tâm quyết liệt từ phía các cơ quan quản lý nhà nước cùng với các chủ thể liên quan bằng cách phân định rõ ràng trách nhiệm trong việc hoạch định chính sách, thông tin, tuyên truyền, kiểm tra, xử lý sai phạm của các doanh nghiệp đối với các vấn đề liên quan đến TNXH nói chung, trách nhiệm đối với cộng đồng, nền kinh tế, khách hàng và môi trường nói riêng. Hơn nữa, TNXH của doanh nghiệp chỉ được chú trọng khi có sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước với các chủ thể khác có liên quan trong việc giám sát đồng bộ, kết hợp giữa chính quyền và các


lực lượng dân sự trong xã hội, đặc biệt là các hiệp hội, tổ chức phi chính phủ và các phương tiện truyền thông, báo chí.

Việc thực hiện TNXH của doanh nghiệp ở Việt Nam vẫn cần được tăng cường tuyên truyền đối với các doanh nghiệp thông qua nhiều hình thức như qua các phương tiện thông tin đại chúng, các đợt tập huấn bắt buộc cho lãnh đạo các doanh nghiệp, các hội nghị, hội thảo khoa học. Ngoài ra, việc tuyên truyền cần được mở rộng đến cả các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan, các nhà quản lý, các nhà hoạch định chính sách vĩ mô. Đồng thời, các nội dung của việc thực hiện TNXH, các thông tin cập nhật về các bộ quy tắc ứng xử, các tiêu chuẩn TNXH liên quan, đặc biệt những quy tắc đã được áp dụng phổ biến trên thế giới, phải được phổ biến đầy đủ và rõ ràng đến các doanh nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng, thực hiện TNXH của các doanh nghiệp ở Việt Nam.

TNXH ở khía cạnh xã hội:

Thứ nhất, cần tuyên truyền, giáo dục cho tất cả các doanh nghiệp, trước hết là các nhà lãnh đạo doanh nghiệp về TNXH của doanh nghiệp, phải làm cho họ hiểu rằng TNXH của doanh nghiệp không phải chỉ bó gọn trong công tác từ thiện. Công tác tuyên truyền, giáo dục rất quan trọng, bởi tất cả những hành vi của con người đều thông qua ý thức của con người, đều do ý thức của họ điều khiển. Do đó, vấn đề đặt ra là, phải làm sao cho việc thực hiện TNXH của doanh nghiệp trở thành động cơ bên trong của các chủ doanh nghiệp. Việc thực hiện trách nhiệm xã hội trước hết cần được xem là một hành vi đạo đức và được điều khiển bằng động cơ đạo đức. Đây chính là giải pháp bên trong đạo đức.

Nhà nước cần ban hành các cơ chế, chính sách hỗ trợ để các doanh nghiệp có thể thực hiện được TNXH của mình. Trong quá trình thực hiện TNXH và các bộ Quy tắc ứng xử, các doanh nghiệp cần phải có chi phí, thậm chí chi phí đầu tư khá lớn, ví dụ đầu tư để cải thiện các điều kiện vệ sinh và môi trường lao động. Những khoản chi phí này, nhiều khi doanh nghiệp không chịu nổi, vì thế với một chính sách ưu tiên, ưu đãi, Nhà nước có thể cho vay từ quỹ hỗ trợ phát triển, quỹ xúc tiến thương mại,…


Đẩy mạnh vai trò của các hiệp hội nghề như Hội Công thương, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, các Bộ, ngành trong việc hình thành các kênh thông tin về TNXH cho các doanh nghiệp, nhất là cung cấp các thông tin cập nhật về các Bộ quy tắc ứng xử; tư vấn cho các doanh nghiệp trong quá trình thực hiện trách nhiệm xã hội và các Bộ Quy tắc ứng xử.

TNXH ở khía cạnh môi trường:

Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường, những chế tài xử phạt phải thực sự đủ mạnh, đủ sức răn đe các đối tượng vi phạm. Bên cạnh đó, cần xây dựng đồng bộ hệ thống quản lí môi trường trong các nhà máy, các khu công nghiệp theo các tiêu chuẩn quốc tế, đồng thời tổ chức giám sát chặt chẽ nhằm hướng tới một môi trường tốt đẹp và thân thiện hơn với con người.

Tăng cường công tác nắm tình hình, thanh tra, kiểm tra, giám sát về môi trường, phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chuyên môn, nhất là giữa lực lượng thanh tra môi trường với lực lượng cảnh sát môi trường các cấp, nhằm phát hiện, ngăn chặn và xử lí kịp thời, triệt để những hành vi gây ô nhiễm môi trường của các tổ chức, cá nhân.

Tổ chức thực hiện nghiêm túc việc thẩm định, đánh giá tác động môi trường đối với các dự án đầu tư, trên cơ sở đó, cơ quan chuyên môn tham mưu chính xác cho cấp có thẩm quyền xem xét quyết định việc cấp hay không cấp giấy phép đầu tư. Việc quyết định các dự án đầu tư cần được cân nhắc kỹ lưỡng giữa lợi ích đem lại trước mắt với những ảnh hưởng của nó đến môi trường về lâu dài. Thực hiện công khai, minh bạch các quy hoạch, các dự án đầu tư và tạo điều kiện để mọi tổ chức và công dân có thể tham gia phản biện xã hội về tác động môi trường của những quy hoạch và dự án đó.

Nâng cao vai trò của lực lượng cảnh sát môi trường, thành lập các cơ quan kiểm toán tối cao có tiến hành hoạt động kiểm toán môi trường. Đồng thời, nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ chuyên trách công tác môi trường; trang bị các phương tiện kỹ thuật hiện đại để phục vụ có hiệu quả hoạt động của các lực lượng này. Thực hiện TNXH là vấn đề lâu dài. Tuy nhiên, việc này mới


thực hiện chủ yếu trong các doanh nghiệp có hàng xuất khẩu sang các thị trường lớn (EU, Mỹ, Nhật…), nhưng trong tương lai tất cả các doanh nghiệp đều cần thiết phải thực hiện TNXH. Vấn đề này trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Bởi vậy, cần phải bắt tay ngay vào nghiên cứu, xây dựng kế hoạch dài hạn và lộ trình thực hiện TNXH của các doanh nghiệp Việt Nam trong giai đoạn mới, phù hợp với xu thế phát triển kinh tế.

TNXH ở khía cạnh kinh tế:

Tạo cơ chế rõ ràng và thông thoáng để doanh nghiệp có thể chủ động đầu tư vào các hoạt động công ích, thiện nguyện, phục vụ xã hội, cộng đồng.

Gia tăng các chính sách hỗ trợ cho doanh nghiệp phát triển kinh tế vùng, miền, địa phương. Ngoài ra, tăng cường sự hỗ trợ hoặc ủng hộ đối với các doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm “xanh”, sản phẩm “vì môi trường” để tạo động lực thúc đẩy các doanh nghiệp phát triển các sản phẩm này.

Tăng cường kiểm tra, giám sát để tạo ra nền kinh tế theo định hướng thị trường đúng bản chất, cạnh tranh lành mạnh và chống độc quyền, đảm bảo môi trường kinh doanh thuận lợi để doanh nghiệp phát triển.

4.3. Hạn chế và định hướng nghiên cứu trong tương lai

4.3.1. Hạn chế của nghiên cứu

Nghiên cứu đo lường TNXH và TQHĐ dựa trên phương pháp khảo sát dựa trên nhận định của các doanh nghiệp ở Việt Nam có thể gặp phải những hạn chế của phương pháp điều tra nói chung và rủi ro đo lường chủ quan nói riêng.

TNXH là một nội dung đa chiều, liên quan đến trách nhiệm thực hiện của doanh nghiệp đối với các bên có liên quan như khách hàng, nhà cung cấp, nhân viên, nhà đầu tư, cổ đông. Tuy nhiên, đối tượng phỏng vấn của nghiên cứu này là các lãnh đạo các doanh nghiệp, các giám đốc tài chính hoặc kế toán trưởng, trưởng phòng TNXH nên chưa đánh giá được việc thực hiện TNXH của doanh nghiệp từ quan điểm của các bên có liên quan. Điều này xảy ra tương tự với các nội dung đánh giá của TQHĐ ở khía cạnh khách hàng, học hỏi phát triển và quy trình nội bộ.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 15/03/2023