Đánh Giá Chung Về Chỉ Số Phát Triển Bền Vững Và Một Số Kiến Nghị


trường xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam là Mỹ và EU (chiếm khoảng gần 50% tổng kim ngạch xuất khẩu) - là những nền kinh tế rơi vào suy thoái nặng nề nhất, nên xuất khẩu bị thu hẹp.

Ngược lại với 2008, năm 2009 Chính phủ thực hiện các gói kích cầu tạo nên sự hồi phục nhất định của quan hệ kinh tế quốc tế cũng như giữ tốc độ tăng giá tiêu dùng chỉ trong vòng một chữ số (nhờ sử dụng gói giải pháp kiềm chế lạm phát, chủ trương thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt), nhưng lại gây sự sụt giảm trong các chỉ số về tỷ trọng đóng góp của TFP vào tốc độ tăng trưởng chung và bội chi ngân sách Nhà nước. Đặc biệt là mức tăng trưởng âm của TFP năm 2009 (-0.34%) đã gây ra sự tụt lùi của kinh tế nói chung. Điều đó cho thấy, dù tốc độ tăng trưởng kinh tế có cao đến đâu, trong khi các chỉ tiêu kinh tế khác thấp đi, nền kinh tế cũng không thể duy trì bền vững được.

Như vậy, để đảm bảo phát triển bền vững, quá trình phát triển không thể coi trọng bất kỳ lĩnh vực nào trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội, môi trường. Trong mỗi lĩnh vực đó, cũng lại không thể coi trọng bất cứ chỉ tiêu nào hơn vì mỗi thay đổi nhỏ của từng chỉ tiêu cũng có ảnh hưởng nhất định tới phát triển bền vững. Quá trình phát triển bền vững ở Việt Nam còn gặp nhiều khó khăn, đòi hỏi những chính sách cải cách phù hợp và từng bước hoàn thiện.

3.3. Đánh giá chung về chỉ số phát triển bền vững và một số kiến nghị

3.3.1. Đánh giá chung về chỉ số phát triển bền vững

Từ kết quả tính toán thử nghiệm chỉ số phát triển bền vững ở Việt Nam giai đoạn 2001 – 2010, tác giả sẽ trở lại đánh giá sự phù hợp của hệ thống chỉ tiêu thống kê phát triển bền vững cũng như các công thức tính đã đề xuất ở chương 2.

Thứ nhất, về hệ thống chỉ tiêu thống kê phát triển bền vững:

- Số lượng chỉ tiêu còn khá nhiều, làm cho quy trình tính toán chỉ số chung trở nên cồng kềnh

- Một số chỉ tiêu chưa đảm bảo thống nhất về phương pháp tính, nguồn số liệu cũng như kỳ báo cáo khiến việc thu thập dữ liệu rất khó khăn, ảnh hưởng tới độ chính xác của kết quả tính toán.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 136 trang tài liệu này.

- Có sự trùng lặp giữa chỉ tiêu chỉ số bền vững môi trường với một số chỉ tiêu


Nghiên cứu thống kê đánh giá phát triển bền vững ở Việt Nam - 14

trong nhóm chỉ tiêu tài nguyên và môi trường, dẫn tới việc tính trùng đối với chỉ số tổng hợp phát triển bền vững.

Thứ hai, về các công thức tính đề xuất. Việc đề xuất các bước tính toán chỉ số tổng hợp phát triển bền vững là phương pháp luận tổng quát để xác định chỉ số chung dựa trên hệ thống chỉ tiêu phát triển bền vững. Với sự thay đổi về hệ thống chỉ tiêu thống kê phát triển bền vững sau này, việc nghiên cứu và phân tích trên đây vẫn có ý nghĩa nhất định về mặt lý luận.

Các chỉ số tính ra trong cùng một giai đoạn phải thống nhất phạm vi và phương pháp tính để đảm bảo tính chất so sánh được. Tuy nhiên, đối với từng giai đoạn phát triển khác nhau có thể có những thay đổi khác nhau. Cụ thể:

- Việc xác định các giá trị tối đa, giá trị tối thiểu trong công thức tính chỉ số riêng biệt đã nêu chỉ mang tính chất tương đối. Vì không có thông tin đầy đủ về mục tiêu phát triển mà Chính phủ đưa ra ứng với từng chỉ tiêu trong giai đoạn phát triển 2001 – 2010, các giới hạn tối đa, giới hạn tối thiểu được chọn theo giá trị lớn nhất, nhỏ nhất hoặc giá trị xu hướng. Bên cạnh đó, nhóm chỉ tiêu hướng tâm cũng có một số chỉ tiêu chưa xác định được giá trị tối ưu nên gây khó khăn trong việc tính toán. Tác giả đã tham khảo các tài liệu khác nhau để đưa ra được con số hợp lý. Tuy nhiên, để có được đánh giá chính xác nhất về phát triển bền vững cho các giai đoạn sau, cơ quan quản lý cần đưa ra mục tiêu cần hướng tới một cách cụ thể, là cơ sở xác định các giá trị tối đa, tối thiểu hợp lý.

- Tầm quan trọng của từng chỉ tiêu trong nhóm chỉ tiêu kinh tế, xã hội hay tài nguyên môi trường mang tính lịch sử cụ thể. Do mục tiêu và chiến lược phát triển khác nhau nên tầm quan trọng của từng chỉ tiêu trong các giai đoạn phát triển khác nhau cũng có thể thay đổi. Từ đó, cần xác định lại tầm quan trọng của từng chỉ tiêu trong các nhóm chỉ tiêu cụ thể trong các nghiên cứu sau này.

- Về công thức tính chỉ số tổng hợp phát triển bền vững, với điều kiện số liệu còn thiếu như giai đoạn 2001 – 2010, tính bình quân trực tiếp từ các chỉ số riêng biệt sẽ mang lại kết quả chính xác hơn. Tuy nhiên, trong trường hợp có đầy đủ số liệu, cần tính chỉ số chung từ các chỉ số thành phần, đảm bảo theo đúng nội dung phát triển bền vững: phát triển hài hòa, cân đối ba mặt kinh tế, xã hội và môi trường.


Như vậy, tùy thuộc vào tương quan số liệu thu thập được của từng nhóm chỉ tiêu để lựa chọn công thức phù hợp nhất.

3.3.2. Một số kiến nghị và giải pháp về công tác thống kê phát triển bền vững ở Việt Nam

Qua các phân tích, hệ thống chỉ tiêu thống kê phát triển bền vững ở Việt Nam vẫn còn những hạn chế nhất định về số lượng, nội dung, phương pháp tính và nguồn số liệu của các chỉ tiêu. Điều đó làm ảnh hưởng nhiều tới kết quả chỉ số tổng hợp phát triển bền vững tính toán được. Để có thể hoàn thiện hơn, cần có sự thống nhất và phân chia nhiệm vụ giữa các cơ quan có liên quan.

3.3.2.1. Kiến nghị

Hệ thống chỉ tiêu thống kê phát triển bền vững là hệ thống chỉ tiêu mang tính vĩ mô, thuộc sự quản lý của các cơ quan Nhà nước, bao gồm nhiều chỉ tiêu phản ánh các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế quốc dân. Dựa vào số liệu tổng hợp từ hệ thống chỉ tiêu phát triển bền vững, mỗi quốc gia có thể có cái nhìn khái quát nhất về tình trạng phát triển của đất nước mình để từ đó đưa ra những chính sách phát triển phù hợp. Chính vì vậy, để đảm bảo tính khả thi của hệ thống chỉ tiêu phát triển bền vững đã đề xuất cần có sự quan tâm của các cơ quan Nhà nước theo các cấp độ khác nhau. Cụ thể:

- Đối với Hội đồng phát triển bền vững quốc gia: Hội đồng Phát triển bền vững quốc gia cần tổ chức một bộ phận chuyên trách để phân tích các chỉ tiêu thống kê tổng hợp được, qua đó đánh giá tình trạng phát triển bền vững ở Việt Nam trong từng thời kỳ. Trên cơ sở đó, Hội đồng phát triển bền vững quốc gia đề xuất với Chính phủ những định hướng, chính sách, mục tiêu phát triển bền vững cho những năm tiếp theo. Các mục tiêu phát triển này sẽ là cơ sở thực tế để xác định các giá trị tối đa, giá trị tối thiểu trong công thức tính chỉ số riêng biệt đã đề xuất.

- Đối với ngành Thống kê: Ngành Thống kê ở Việt nam được tổ chức theo ngành dọc từ Tổng cục Thống kê, Cục Thống kê Tỉnh, Thành phố và các Chi cục Thống kê quận, huyện…

+ Tổng cục Thống kê là cơ quan cao nhất của ngành Thống kê Việt Nam, cần thực hiện rà soát lại các chỉ tiêu trong hệ thống chỉ tiêu thống kê phát triển bền


vững để có được hệ thống chỉ tiêu đánh giá tốt nhất quá trình phát triển ở Việt Nam. Từ đó, Tổng cục Thống kê cũng cần nghiên cứu để đưa ra phương pháp tính cụ thể, thống nhất chỉ số tổng hợp phát triển bền vững, giúp Hội đồng phát triển bền vững quốc gia trong đánh giá, phân tích thực trạng phát triển của đất nước.

Các Vụ chuyên môn trong Tổng cục Thống kê có trách nhiệm làm các báo cáo định kỳ, theo quy trình thống nhất những chỉ tiêu phát triển bền vững theo quy định của Chính phủ. Những chỉ tiêu chưa có phương pháp luận cũng như cách xác định cũng cần thống nhất để có thể có dữ liệu chính xác, phục vụ cho công tác quản lý và điều hành của Chính phủ, ví dụ chỉ tiêu GDP xanh, Chỉ số bền vững môi trường, hiệu quả sử dụng vốn đầu tư... Đây là nhiệm vụ quan trọng, có ảnh hưởng lớn tới độ chính xác trong tính toán chỉ số tổng hợp phát triển bền vững cũng như đánh giá xu hướng biến động của chỉ số này theo thời gian.

+ Cục Thống kê Tỉnh, Thành phố có trách nhiệm tổng hợp tài liệu báo cáo của các Chi cục Thống kê quận, huyện, đồng thời triển khai điều tra, thu thập thông tin trong phạm vi địa phương quản lý. Theo định kỳ, các Cục Thống kê sẽ báo cáo cho các Vụ chuyên môn thuộc Tổng cục Thống kê nằm đảm bảo tiến độ tổng hợp số liệu của cả quốc gia.

- Đối với các Bộ và cơ quan ngang Bộ có liên quan:

+ Phối hợp với các cơ quan có liên quan thống nhất phương pháp tính một số chỉ tiêu mới, ví dụ chỉ tiêu tỷ lệ số xã được công nhận đạt tiêu chí nông thôn mới,...

+ Thực hiện chức năng quản lý, yêu cầu các Sở trực thuộc báo cáo tình hình số liệu các địa phương theo định kỳ bắt buộc để có thể tổng hợp kịp thời các chỉ tiêu thống kê phát triển bền vững trong lĩnh vực của mình.

+ Nắm rõ và báo cáo theo định kỳ các số liệu thống kê được yêu cầu, phục vụ kịp thời cho khâu tổng hợp, xử lý và phân tích dữ liệu.

Riêng đối với Bộ tài nguyên và môi trường có văn phòng phát triển bền vững thì cần giao trách nhiệm tổng hợp, cung cấp thông tin và số liệu cho bộ phận chuyên trách này để thực hiện báo cáo thống kê hiệu quả nhất.

3.3.2.2. Giải pháp

Với những yêu cầu đảm bảo tính khả thi của hệ thống chỉ tiêu thống kê phát


triển bền vững đã nêu, cần xác định rõ mô hình và chế độ báo cáo thống kê phù hợp. Dưới đây đề xuất một số giải pháp cụ thể:

- Về mô hình báo cáo thống kê theo các cấp:

Trong quá trình xây dựng và thực hiện chương trình nghị sự 21 về phát triển bền vững, thông tin được thu thập từ các nguồn khác nhau. Những thông tin này mang tính chất riêng lẻ, thuộc hệ thống thông tin quốc gia mà từng cơ quan phải trách nhiệm báo cáo cho cấp có thẩm quyền. Để hệ thống chỉ tiêu thống kê phát triển bền vững ở Việt nam đề xuất có thể áp dụng trong điều kiện hiện nay cần phải có một mô hình báo cáo thống kê thống nhất theo từng cấp, thuận tiện trong các công tác tổng hợp và quản lý.

Dưới đây đề xuất mô hình báo cáo thống kê về các chỉ tiêu trong hệ thống chỉ tiêu thống kê phát triển bền vững từ địa phương tới trung ương:

Các Sở có

liên quan

Các Bộ, cơ quan ngang Bộ

có liên quan

Cục Thống kê

các Tỉnh,

Thành phố

Các Vụ chuyên môn - Tổng cục

Thống kê

Văn phòng PTBV

quốc gia

Hội đồng PTBV

quốc gia

Chính

phủ

Sơ đồ 3.1. Mô hình báo cáo thống kê theo các cấp


Cơ quan có thẩm quyền cao nhất chỉ đạo và thông qua các chương trình, chiến lược quốc gia là Chính phủ. Vì vậy, tất cả các thông tin sau khi được tổng hợp, thu thập đầy đủ sẽ phải báo cáo lên Chính phủ để cơ quan này thực hiện chức năng quản lý và lãnh đạo, thông qua các chủ trương, chính sách phát triển đất nước.

Để giúp Chính phủ chỉ đạo thống nhất việc thực hiện định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam trong phạm vi cả nước, Hội đồng phát triển bền vững quốc gia được thành lập theo quyết định số 1032/QĐ-TTg của Thủ tướng


Chính phủ. Các thông tin về phát triển bền vững nói chung và hệ thống chỉ tiêu thống kê phát triển bền vững nói riêng cần phải được báo cáo lên cơ quan có thẩm quyền cao nhất là Hội đồng phát triển bền vững quốc gia để cơ quan này có báo cáo tổng quát nhất lên Chính phủ về quá trình thực hiện phát triển bền vững của Việt Nam.

Giúp việc cho Hội đồng phát triển bền vững quốc gia là Văn phòng phát triển bền vững quốc gia, gọi tắt là Văn phòng Agenda 21, tên giao dịch quốc tế là Vietnam Agenda 21, ký hiệu là VA21. Văn phòng này được thành lập theo Quyết định số 685/QĐ-BKH ngày 28/6/2004 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư để thực hiện Chương trình Nghị sự 21 về phát triển bền vững của Việt Nam. Đây là cơ quan có trách nhiệm giám sát, đánh giá kết quả hoạt động phát triển bền vững của cả nước cũng như phối hợp với các bộ, ngành để xây dựng các cơ chế chính sách, đề xuất các giải pháp nhằm thúc đẩy thực hiện Chương trình Nghị sự 21 về phát triển bền vững của Việt Nam. Chính vì vậy, hệ thống chỉ tiêu thống kê phát triển bền vững ở Việt nam cần phải được tổng hợp thống nhất ở cơ quan này.

Văn phòng phát triển bền vững quốc gia có trách nhiệm tổng hợp thống nhất số liệu của các chỉ tiêu thống kê phát triển bền vững từ các cơ quan có liên quan. Đó là Tổng cục Thống kê (thuộc Bộ Kế hoạch và đầu tư) và các Bộ, ngành có trách nhiệm tổng hợp thông tin báo cáo phát triển bền vững theo Quyết định số 432/QĐ- TTg ngày 12 tháng 4 năm 2012 của Thủ tướng Chính phủ).

Để có được tài liệu tổng hợp, báo cáo lên cấp trên, các Bộ và Tổng cục Thống kê không thể tự thu thập. Những cơ quan này phải dựa vào tài liệu báo cáo lên của từng địa phương. Theo ngành dọc, mỗi Tỉnh/Thành phố sẽ có các Sở và Cục Thống kê tương ứng. Đây là các cơ quan hành chính có trách nhiệm thu thập tài liệu thuộc lĩnh vực quản lý, tính toán các chỉ tiêu cần thiết trong hệ thống chỉ tiêu thống kê phát triển bền vững của quốc gia. Với những dữ liệu này, các cơ quan sẽ báo cáo lên cấp trên trực tiếp quản lý để tổng hợp cho hệ thống chỉ tiêu thống kê phát triển bền vững quốc gia. Bên cạnh đó, văn phòng Phát triển bền vững ở từng địa phương cũng sử dụng phần dữ liệu của những cơ quan này để đánh giá và vạch ra định hướng, chính sách cho phát triển bền vững cho địa phương mình.


- Về chế độ báo cáo thống kê:

Hệ thống chỉ tiêu thống kê phát triển bền vững được tổng hợp và báo cáo theo ngành dọc từ các địa phương. Tuy nhiên, để tránh sự chồng chéo, sau khi xây dựng mô hình báo cáo thống kê, cần thiết phải thiết lập và quy định chế độ báo cáo với nguồn số liệu được quy định cụ thể đối với từng chỉ tiêu.

Theo Quyết định số 43/2010/QĐ-TTg ngày 02 tháng 6 năm 2010 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia, phần lớn các chỉ tiêu được tổng hợp báo cáo theo chế độ định kỳ hàng năm. Phát triển bền vững cũng là một vấn đề vĩ mô và cần được tích luỹ về lượng trong một thời gian dài. Chính vì vậy, số liệu của các chỉ tiêu thống kê phát triển bền vững cũng cần được các cơ quan có trách nhiệm tổng hợp theo định kỳ hàng năm.


KẾT LUẬN CHƯƠNG 3


Nội dung chính của chương 3 là việc thu thập số liệu của các chỉ tiêu trong hệ thống chỉ tiêu thống kê phát triển bền vững, từ đó áp dụng quy trình tính toán đã nêu ở chương 2 để tính chỉ số tổng hợp phát triển bền vững. Với các công thức khác nhau, tác giả tính toán được nhiều kết quả khác nhau đối với chỉ số phát triển bền vững. Để có thể lựa chọn phương pháp phù hợp, tác giả đã sử dụng phương pháp đồ thị thống kê và bảng thống kê để so sánh và phân tích.

Với các phân tích đã có, tác giả chọn công thức tính phù hợp nhất với điều kiện số liệu giai đoạn 2001 – 2010. Tuy chỉ mang tính tương đối do số lượng chỉ tiêu có số liệu còn hạn chế, nguồn số liệu chưa thống nhất, chỉ số tổng hợp phát triển bền vững đã phản ánh phần nào quá trình phát triển ở Việt Nam trong giai đoạn 10 năm, từ 2001 đến 2010. Điều đó chứng minh tính khả thi trong nghiên cứu của luận án.

Qua tính toán và phân tích bằng đồ thị, chỉ số tổng hợp phát triển bền vững cho thấy kết quả phát triển của Việt Nam chưa thực sự ổn định và bền vững như mong muốn trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001 – 2010. Kinh tế phát triển không ổn định do chịu ảnh hưởng bối cảnh chung của thế giới, cũng như của các chính sách liên quan. Đời sống người dân tuy đã được cải thiện nhưng


vẫn còn khá thấp, chỉ ở mức trung bình.

Trong phần cuối của chương, tác giả quay trở lại đánh giá hệ thống chỉ tiêu cũng như các công thức đã đề xuất dựa trên kết quả tính toán và phân tích chỉ số tổng hợp phát triển bền vững giai đoạn 2001 – 2010 ở Việt Nam. Từ đó, tác giả đưa ra một số kiến nghị cùng đề xuất giải pháp để hoàn thiện hơn công tác thống kê trong xây dựng cơ chế thu thập, tổng hợp và công bố số liệu về phát triển bền vững trong tương lai.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 02/10/2022