Con Người Trên Hành Trình Vô Tận Tìm Kiếm Giải Thoát:


ý, vô ngôn, tự do…), tiêu chí về chức năng tôn giáo (con người Phật giáo và con người cá nhân), tiêu chí về đối sánh trào lưu văn học với đặc điểm nội dung thể loại (chủ nghĩa nhân văn và tư tưởng giải thoát…).

Sở dĩ có thể mở rộng biên độ tìm hiểu con người trong thơ thiền là vì: 1- đặt thơ thiền trong tương quan so sánh, chúng tôi có điều kiện tìm thấy nhiều đặc tính giống và khác nhau của hai nền thơ ca mà Phật giáo Thiền tông có ảnh hưởng sâu sắc; 2- Qua nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy thế giới quan vô tận cũng như tư duy phủ nhận huyền ảo vốn có trong văn học Phật giáo đã mang lại cho Thơ thiền chân trời rộng mở của các biểu hiện con người Thiền. Nghĩa là, phân loại con người trong trường hợp này dựa trên tiêu chí mỹ học Phật giáo.

Phần trình bày tiếp theo của luận án sẽ tập trung vào ba kiểu hình tượng con người trong thơ thiền Lý Trần và Đường Tống. Điểm nhìn đối sánh cũng được thực hiện trong quá trình giới thiệu và phân tích.

3.3.1. Con người hành hương

3.3.1.1. Yếu tố hành hương trong văn học Phật giáo

Hành hương, theo quan niệm của người viết, có thể hình dung trên nhiều phương diện: hành hương đến đất thánh, đất Phật, hành hương về xứ sở đẹp đẽ, trong sáng với niềm tiêu dao, thoát tục, hành hương như một động thái dấn thân, hướng tới những chiêm nghiệm sâu sắc nhất của thiền gia về còi đời... Trong những chiêm nghiệm đó, con người luôn cảm giác mình đang sống trong một hành trình vô tận tới những dốc cao tâm linh và chân trời giải thoát.

Hành hương trong tôn giáo thường được xem như biểu tượng về hành trình đức tin. Kinh Thánh đã kể lại nhiều cuộc hành hương vĩ đại của loài người như hành trình của dân Chúa từ Ai Cập về Đất hứa với 40 năm lưu lạc giữa sa mạc nóng bỏng, cuộc hành hương của Chúa Jesus về thành địa Jerusalem... Hành hương về sông Hằng, về Bồ Đề đạo tràng – nơi Đức Phật chứng đắc… cũng


thường được nhắc đến trong các điển truyện Phật giáo. Nhưng hành hương không chỉ là những chuyến đi của những tín đồ hoặc các tu sĩ đến một địa danh cụ thể nào đó. Về mặt tinh thần, hành hương mang nhiều lớp nghĩa tâm linh sâu sắc. Hành hương vừa gợi đến những chuyến đi, những cuộc phiêu bồng của đời người, vừa mang ý nghĩa tu tập, kham nhẫn của người học đạo.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 285 trang tài liệu này.

Kinh Hoa Nghiêm, bộ Kinh tiêu biểu cho Phật giáo Đại thừa với hình

tượng Thiện tài Đồng tư,û nhân vật trải qua 53 thế giới để gặp gỡ chư Phật và cầu học đạo, đã mở ra chiều sâu vô tận cho ý niệm về những chuyến đi của tâm linh con người. Thiên Tiêu dao du, Tề Vật luận của Trang Tử luận bàn rất nhiều về những cuộc du ngoạn vĩ đại, từ cái thế trôi vô tận của loài cá Côn đến cái tung vẫy của cánh chim Bằng. Bên cạnh đó, âm hưởng “qui khứ lai từ” của thơ ca Trung Quốc đời Đường cũng phản chiếu tinh thần “trở về” trong thơ ca thời kỳ này: trở về với thiên nhiên, với cái tâm nhàn thích. Do vậy, cũng có thể nói, hành hương vừa là cảm thức mang màu sắc tôn giáo nói chung, vừa là cảm thức phổ biến của con người trong những biến cố đời sống và tinh thần. Do hòa hợp sâu sắc triết học Lão Trang, Thiền tông Trung Hoa đã du nhập trọn vẹn tinh thần chơi đùa tiêu dao của học thuyết này, mặt khác, nó cũng không từ chối ghi nhận và diễn bày cả những cảm thức thân phận khác mà con người có thể có trong cuộc đời rộng lớn.

Nghiên cứu so sánh thơ Thiền Lý - Trần với thơ thiền Đường - Tống Trung Quốc - 22

Tính chất biểu tượng của hành hương trong Thiền học là đi từ đau khổ tới giác ngộ, từ lưu lạc đến lúc trở về. Hành hương trong Thiền là con đường “đồng với bụi bặm”, nhưng chính lúc ấy, hành giả cũng hướng trọn tâm mình đến sự chứng ngộ viên mãn, trở về ngôi nhà của bản tâm. Hình ảnh “về nhà” là một trong những hình ảnh biểu trưng bản thể đặc sắc nhất mà thơ thiền của cả hai thời đại lớn : Lý – Trần (Việt Nam) và Đường – Tống (Trung Quốc) đã mang lại cho nền văn học Phật giáo.


Không phải ngẫu nhiên mà D.T Suzuki đã dành rất nhiều trang cho phần viết về cảm thức hành hương của các thiền sư Nhật Bản mà trong đó Basho là một đại biểu vĩ đại:

“Trong thời đại Basho, cuộc sống con người chưa bị đẩy vào sự tầm thường và quẫn bách. Một cái nón tre, một cây gậy trúc, và một túi vải là đủ cho nhà thơ trong chuyến hành hương đời mình. Ông có thể dừng lại đôi chút ở một ngôi làng nào đó, hoặc ở bất kỳ nơi nào đập vào trí tưởng tượng của nhà thơ, hứng thú trước một kinh nghiệm nào đó đến với mình, cho dù những điều này bao chứa cả nỗi gian khổ của chuyến hành hương giản dị. Nhưng hãy nhớ rằng một cuộc hành trình quá dễ dàng và đầy đủ tiện nghi đồng nghĩa với việc ý nghĩa tinh thần của nó cũng mất đi. Có thể đó là sự đa cảm, nhưng cảm giác cô đơn mà chuyến du hành mang lại sẽ giúp con người thấu hiểu được ý nghĩa của đời sống, vì cuộc sống này, suy cho cùng, là một chuyến phiêu lưu vô định” [242; 281].

Tinh thần thiền học Nhật Bản với những thành tựu mỹ học rực rỡ của nó cũng là những điểm tham chiếu trong khi luận bàn về thơ thiền phương Đông nói chung. Hành hương, trong nhiều góc độ, lại gợi ra cả cảm thức lưu đày kín đáo. Điều này xảy ra khi hành hương trở thành hành trình sống với nội dung ám chỉ thân phận con người. Do đó, đôi khi những chuyến đi trong thơ thiền vẫn không tránh khỏi niềm u uẩn.

Trong thơ thiền Việt Nam và Trung Quốc, người ta bắt gặp rất nhiều hình ảnh: áo tơi, gậy trúc, lều cỏ, đường núi, thuyền không, am vắng, … Đó là gì, nếu không phải là cốt cách và không gian của một hành nhân vĩnh cửu?

Thiền tịch Trung Hoa có một thi ảnh tuyệt vời, rút từ công án “Muôn dặm không một tấc cỏ” của thiền sư Động Sơn. “Ngoài cửa là cỏ” - Không gian cỏ


mênh mông là đường chăng? Hay chẳng phải đường? Ngoài cửa là sự sống chăng? Hay là cái chết?... “Ngoài cửa là cỏ” là một thi ảnh đa nghĩa, gợi ra một không gian huyền ảo. Hành giả tu thiền chính là người đi trên con đường chẳng phải đường ấy, với mục đích cao nhất là biến cuộc phiêu lưu thành chuyến trở về. Xuất phát từ cảm thức hành hương mà hàng loạt các hình ảnh thơ ca xuất hiện trong thơ thiền Việt Nam và Trung Quốc đều mang một ý vị triết lý rất riêng với

những ám ảnh tinh tế về con đường tu chứng nhọc nhằn nhưng không kém phần kỳ diệu.

3.3.1.2. Con người với hành trình lên núi cao, rừng sâu

Hành trình lên núi là hành trình của những thiền nhân “Giày cỏ đan vài ba tháng – Áo gai từng vá đôi lần” (Thiền sư Linh Trừng), “ngồi nhàn với hoa trên non, chim dưới suối” (Vương An Thạch), là “người cầm ngang ống sáo ngọc” mà đi giữa đường hoa bên nắng bên râm lên núi (Trần Nhân Tông), là người “chống gậy nhởn nhơ ngoài thế gian” mà ngắm nhìn mây trên đỉnh núi cao ngất (Tuệ Trung thượng sĩ)…

Tô Thức, cũng như Hàn Sơn, Vương Duy, Trần Thái Tông đều là những bậc thiền nhân thiết tha với cảnh núi non, am vắng. Núi non là nơi cất giữ tâm linh cho họ, cũng là nơi trở về của cái Tâm từng biết bao xao động với cuộc đời. Núi cao, sâu, vắng lặng. tương đồng kỳ diệu với Tâm không.

Đường quanh theo non núi xanh xanh, đường núi, đường mòn, đường vắng chính là những biến thể khác nhau của tinh thần hành hương thiền tông. Tuệ Trung có câu thơ:

Đường trung đoan tọa tịch vô nghiên Nhàn khán Côn Luân nhất lũ yên Ngồi giữa nhà không nói,

thảnh thơi ngắm nhìn một sợi khói bay lên trên núi Côn Luân


Sợi khói mong manh ấy có thể thu hút toàn tâm của một thiền nhân ngồi an tọa giữa nhà. Đó là một pháp chứa vạn pháp trong thế giới Hoa Nghiêm chăng? Tâm người và sợi khói trên đỉnh chót núi kia đồng nhau chăng? Tâm người lên núi theo sợi khói nhỏ của hơi thở – một hành trình kỳ diệu. Đời Đường, thi Phật Vương Duy cũng có câu tuyệt bút về hành trình trên núi như sau:

Sơn lộ nguyên vô vũ Không thúy thấp nhân y

Đường núi vốn không có mưa

chỉ màu xanh hư không làm ướt áo người

Màu xanh hư không của Vương Duy là một ám ảnh giàu chất thơ và mang phong vị thiền sâu kín. Màu xanh hư không ấy rất gần với tánh không bao la, cái sunyata huyền mộng của tinh thần Trung Quán; nhưng làm sao cái tánh không ấy có thể làm ướt áo người? Hay nó cũng đồng với còi trần ai? Chỗ “chân không” trong thơ Vương Duy phải chăng nằm ở những khơi gợi kín đáo này.

3.3.1.3. Con người với những chuyến tiêu dao, chơi đùa

Hơi thở của Lão Trang trong thơ thiền có lẽ thể hiện đậm nhất ở tính chất chơi đùa. Cuộc hành hương của những hành giả trở nên nhẹ nhàng, thanh thoát, pha chút nhiệm màu bởi được tinh chế rất nhiều xúc cảm của thú tiêu dao.

Vương Duy trong nhiều bài thơ đã kể lại những chuyến du ngoạn đến nguồn đào – suối hoa đào. Đó có thể là một cảnh tượng đẹp trong bất kỳ bài thơ nào, nhưng với xúc cảm giác ngộ có từ hoa đào của thiền sư Linh Vân, hình ảnh hoa đào còn mang một ý vị giải thoát. Nhà thơ viết: thuyền chài theo dòng nước, yêu cảnh nước non mùa xuân –hai bên bờ hoa đào nở trên bến cũ – mãi xem “hồng thụ” mà không biết đã đi xa…” . Ở một bài thơ khác, Vương Duy chơi với trăng, với trúc:

Trong trúc tối ta ngồi


gảy đàn rồi huýt sáo Rừng sâu ai tỏ thấu Thân ta trong trăng ngời

Tuệ Trung thượng sĩ có đến hai bài Giang hồ tự thích, một bài là cảnh của chiếc thuyền không nằm ghếch trên cát sau chuyến hồ hải mải mê, và bài còn lại:

“Sông dài thuyền nhỏ lênh đênh

Chèo đưa lãng đãng qua ghềnh thác xa Từ đâu tiếng nhạn bay qua

Chợt hay thu đến muôn nhà gió thu”

[38; 54]

Cùng với Phóng cuồng ngâm, cuộc tiêu dao của Tuệ Trung dẫu chứa đựng sâu thẳm niềm an nhiên của Thiền, nhưng vẫn không ngừng trở thành niềm hân hoan của con người trước cuộc chơi lớn, nơi đạo và đời cùng một gương mặt:

Ngắm trời đất sao mà mông mênh Chống gậy nhởn nhơ ngòai thế gian Hoặc đến chỗ núi mây cao cao Hoặc đến chỗ biển nước sâu sâu Đói thì ăn cơm hòa la

Mệt thì ngủ làng “không có làng” Khi hứng thì thổi sáo không lỗ

Khi yên tĩnh thì thắp hương giải thoát…

Huyền Quang tôn giả cũng có bài Chu trung (Trong thuyền) gợi khí vị thiền rất khéo: Một lá thuyền con, một khách hải hồ – Chèo khỏi rặng lau, tiếng gió xào xạc – Bốn bề mịt mù, con nước buổi chiều đương lên – một chim âu trắng giữa khoảng trời nước liền nhau [241; 684]. Hay ở bài Phiếm chu (Chơi


thuyền), nhà thơ cũng kể về còn thuyền xa tít ruổi rong giữa chốn non xanh nước biếc, nơi có trăng rơi xuống đáy sông…

Bát nhã Tâm kinh kết thúc bằng mật chú với ý nghĩa: “đi qua, đi qua, đi

qua bờ bên kia, qua đến bờ bên kia”(Yết đế! Yết đế! Ba la yết đế! Ba la tăng yết đế!Bồ đề tát bà ha!). Hình ảnh con thuyền đưa hành giả vượt bờ (đáo bỉ ngạn) trở thành hình ảnh thường xuyên trong văn học Phật giáo với nhiều biến thể như: con thuyền chở trăng, con thuyền Bát nhã, con thuyền sang bờ bên kia, con thuyền của tánh không bao la… Nguyễn Lang trong Việt Nam Phật giáo sử luận viết: “Không những đứng về phương diện tư tưởng mà đứng về phương diện văn học,

hình ảnh một chiếc thuyền trống không lặng lẽ vượt biển dưới ánh trăng tịch tĩnh của Lăng Già là một hình ảnh màu nhiệm” [114; 126].

Đó là con thuyền không của thiền sư Huệ Sinh (đời Lý) “không không độ hải chu”, là con thuyền đầy ắp ánh trăng của Hoa Đình Thuyền tử - vị thiền sư chèo thuyền bí ẩn đời Đường với câu thơ kinh điển: Mãn thuyền không tải nguyệt minh qui”, nghĩa là con thuyền suông chở ánh trăng sáng quay về.

Thơ thiền đời Đường còn có câu thơ lạ của Đầu Tử Nghĩa Thanh: Tịch dương ảnh lý phong đào cấp

Bất giác di chu hạ độ hôn” Dịch nghĩa:

Trong bóng chiều sóng to gió cả

Bỗng nhiên (ta) đẩy thuyền xuống bến ngao du.

[10; 245].

Khác với con thuyền thong thả về chốn thiền của Vương Duy, con thuyền của Đầu Tử ngao du như nhiên giữa sóng gió như nhiên. Những cuộc vượt bờ thường vẫn không giống nhau, bởi vì thời tiết nhân gian cũng luôn khác nhau.

3.3.1.4. Con người trên hành trình vô tận tìm kiếm giải thoát:


Những thiền sư-nhà thơ như như Hàn Sơn, Vương Duy, như Trần Thái Tông, Tuệ Trung, Trần Nhân Tông, sau này là Basho của Nhật Bản, đều là nhưng hành giả vĩ đại trên con đường giải thoát. Con đường gắn với sự tìm kiếm và tu luyện đã trở thành một biểu tượng. Đó là con đường vô tận và sâu thẳm của Vương Duy khi đi về suối hoa đào, đường của Tuệ Trung trong khúc cuồng ca, đường của Điều ngự Trúc Lâm Trần Nhân Tông trên đỉnh Yên Tử, đường vào non xanh của Pháp Loa Đồng Kiên Cương... Cuộc du hành ấy là cuộc tìm kiếm không nguôi ánh sáng của tự do và đại ngộ. Bản thân khái niệm “tìm kiếm” trong thiền chứa đựng một nội dung kép, đó là sự khổ học và “hài hước”. Một xê xích mảy may có thể biến cuộc tìm kiếm ấy thành một trò đùa của vô minh. Vì thế, tính chất “phản tỉnh” trong tìm kiếm thường xuất hiện rất nhiều trong thơ thiền của cả hai nước Việt Nam và Trung Quốc.

Đây là những triết lý con đường tu tập của các thiền sư Trung Hoa: “Mọi con đường đều là đường về nhà”, “Từ xưa đến nay ngàn vị thánh đều đi trên một con đường”, “Rò ràng quên mất đường xưa”, “Đi theo mùi cỏ thơm – về theo vết hoa rụng, “Không đi cỏ phủ che đường lối ra cửa vẫn còn cách trời xa”, “Lúc xoay đầu lại đạp nhằm con đường dẫn lên trời” , “Chỗ núi xanh nào mà chẳng

phải là nhà của thiền nhân trở về41...

Con đường-chẳng phải đường ấy lại trở thành bản tâm, được nhìn từ thế lưỡng vong - cả hai đều quên của chính hành giả - quên con đường vọng động để trở lại lập tức với sơ tâm. Thiền sư Trạm Đường Trung Quốc có câu thơ rất huyền diệu: “Phong đầu lộ, tạm kinh quá” nghĩa là: Phật chỉ là con đường trên đỉnh cô phong, có thể đi qua mà chẳng thể ở lại. Toàn bộ ý nghĩa của triết lý về con đường trong thơ thiền tập trung ở thông điệp: Vạn pháp là vô môn, kể cả pháp vĩ


41 Xem thư mục [10]

Xem tất cả 285 trang.

Ngày đăng: 21/07/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí