trưởng và phát triển kinh tế. Những bệnh thường gặp ở người cao tuổi là các bệnh mạn tính như: bệnh mạch vành, tăng huyết áp (THA), đột quỵ, đái tháo đường, ung thư, bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính, thoái hóa khớp, loãng xương, sa sút trí tuệ, trầm cảm, mù l a và giảm thị lực; các bệnh này là nguyên nhân chính gây giảm sút sức khoẻ ở người cao tuổi [95].
* Nghiên cứu trên thế giới
Khi các quốc gia tiến hành công nghiệp hóa, việc thay đổi lối sống và việc làm là nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi về mô hình bệnh tật. Ở các quốc gia phát triển, mối quan tâm hàng đầu về sức khỏe là ph ng và điều trị các bệnh mãn tính (tim mạch, ung thư, tiểu đường, rối loạn chuyển hóa, Alzheimer), tăng hiệu quả chăm sóc nội trú, cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu (CSSKBĐ) có hiệu quả, dịch vụ chăm sóc dài hạn cho người cao tuổi [87], [96]. Trong khi các nước đang phát triển phải tiếp tục giải quyết các bệnh lây nhiễm, suy dinh dưỡng… đồng thời phải đối phó với sự gia tăng nhanh chóng các bệnh không lây truyền trong điều kiện hệ thống chăm sóc sức khỏe c n nhiều thiếu thốn [53], [78].
Tại các nước phát triển, tuổi già là nguyên nhân dẫn đến tình trạng tàn phế và các bệnh mạn tính. Những tàn phế thường gặp là giảm thị lực, giảm thính lực và ngã chấn thương. Trên thế giới có khoảng 180 triệu người bị tàn phế về thị giác, khoảng 4% NCT bị khiếm thị mà nguyên nhân chính là do đục thuỷ tinh thể, tăng nhãn áp, thoái hoá điểm vàng và bệnh võng mạc do đái tháo đường. Người cao tuổi cũng dễ bị mắc các bệnh do rối loạn chuyển hóa. Nghiên cứu của Lai S.W ở 1.123 NCT (>65 tuổi) thấy hàm lượng acid uric trung bình là 7.4 ± 1,6mg/dl ở nam giới và 6,3 ±1,6 mg/dl ở nữ giới. Các yếu tố có liên quan với tăng acid uric máu là huyết áp tâm trương, BMI, cholesterol, triglyccicd và creatinin máu [82]. Nhiều nghiên cứu khác cũng cho thấy các yếu tố như thái độ hành vi, lối sống ít vận động, dinh dưỡng không hợp lý, thói quen hút thuốc lá và uống rượu cũng góp phần ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của NCT.
* Nghiên cứu ở Việt Nam
Mô hình bệnh tật của người cao tuổi Việt Nam là mô hình chuyển từ bệnh lây nhiễm sang bệnh mạn tính, không lây nhiễm. Đây đang là một thách thức lớn vì các bệnh không lây nhiễm thường có thời gian tiềm tàng kéo dài với các tình trạng tiền bệnh như thừa cân, béo phì, tăng huyết áp, rối loạn glucose máu và một số rối loạn chuyển hóa khác.
Bệnh không lây nhiễm có chung các yếu tố nguy cơ, các yếu tố này được chia làm 3 nhóm: các yếu tố về hành vi, lối sống (thói quen hút thuốc, lạm dụng rượu bia, chế độ dinh dưỡng không hợp lý (ăn ít rau, nhiều thịt...), thói quen ít vận động; các yếu tố về môi trường (môi trường tự nhiên, môi trường chính trị, xã hội, kinh tế); các yếu tố nguy cơ không thay đổi được (tuổi, giới tính, chủng tộc...) [36], [53]. Điều đáng nói là nguy cơ mắc các bệnh không lây nhiễm tăng dần theo tuổi do sự phơi nhiễm trong một thời gian dài các bộ phận chức năng của cơ thể và giảm khả năng hệ thống miễn dịch. Năm 1996, bệnh lây nhiễm chiếm tỷ lệ mắc là 37%, trong đó chết là 33,0%; bệnh không lây nhiễm theo thứ tự là 50,0% và 43,0%; đến năm 2005, bệnh lây nhiễm giảm c n 25,0% và 16,0%; c n các bệnh không lây nhiễm lại tăng cao 62,0%, trong đó tỷ lệ chết là 61,0% [36]. Vì vậy, đối với người cao tuổi Việt Nam, bệnh không lây nhiễm lại càng trở nên nghiêm trọng hơn và việc điều trị là rất tốn kém do bệnh thường chỉ được phát hiện ở giai đoạn muộn.
Nghiên cứu Phạm Thắng và Đỗ Thị Khánh Hỷ (2009) [53] chỉ ra rằng nguy cơ khuyết tật của người cao tuổi ở Việt Nam cũng rất cao, trong đó khuyết tật thường gặp là mất thị lực và thính lực. Tình trạng này có thể khiến cho người cao tuổi bối rối, tự ti và giảm giao tiếp xã hội. Xét theo độ tuổi, kết quả từ Tổng Điều tra Dân số và Nhà ở năm 2009 cho thấy tỷ lệ khuyết tật của người cao tuổi tăng lên khi tuổi cao hơn (Bảng 1.5) [66].
Bảng 1.5. Tỷ lệ khuyết tật ở người cao tuổi
Không khó khăn | Khó khăn | Rất khó khăn | Không thể | |
Nhìn (% theo độ tuổi) | ||||
60-69 | 80,5 | 17,9 | 1,3 | 0,3 |
70-79 | 65,2 | 30,5 | 3,7 | 0,7 |
80+ | 45,3 | 41,6 | 10,9 | 2,3 |
Nghe (% theo độ tuổi) | ||||
60-69 | 89,6 | 9,1 | 1,1 | 0,2 |
70-79 | 74,4 | 21,8 | 3,4 | 0,5 |
80+ | 49,6 | 37,1 | 11,5 | 1,8 |
Ghi nhớ (% theo độ tuổi) | ||||
60-69 | 89,0 | 9,7 | 1,1 | 0,3 |
70-79 | 74,7 | 21,5 | 3,1 | 0,7 |
80+ | 51,2 | 35,4 | 10,8 | 2,5 |
Có thể bạn quan tâm!
- Nghiên cứu nhu cầu, đáp ứng dịch vụ chăm sóc sức khỏe người cao tuổi và thử nghiệm mô hình can thiệp cộng đồng tại huyện Đông Anh, Hà Nội - 1
- Sử Dụng Dịch Vụ Chăm Sóc Sức Khỏe Ở Người Cao Tuổi
- Mô Hình Y Tế Viễn Thông Trong Chăm Sóc Sức Khỏe Người Cao Tuổi
- Mô Hình Chăm Sóc Sức Khỏe Cho Người Cao Tuổi Tại Bệnh Viện
Xem toàn bộ 142 trang tài liệu này.
Nguồn: Tổng Điều tra Dân số và Nhà ở năm 2009
Nghiên cứu của Đàm Hữu Đắc và cộng sự (2010) [31] cho thấy 95% người cao tuổi có bệnh và chủ yếu là các bệnh như: xương khớp (40,62%); tim mạch và huyết áp (45,6%); tiền liệt tuyến (63,8%); rối loạn tiểu tiện (35,7%) và phổi phế quản tắc nghẽn mãn tính (12,6%). Những bệnh tật phát sinh do thay đổi lối sống như sa sút tâm thần và trầm cảm lại có xu hướng tăng và tỷ lệ người cao tuổi mắc các bệnh này tăng lên khi tuổi cao (Bảng 1.6) [53].
Bảng 1.6. Tỷ lệ một số bệnh tâm thần thường gặp của người cao tuổi
Nhóm tuổi | |||
60 - 74 | >= 75 | ||
Sa sút tâm thần | n (%) | 24/617 (3,9%) | 12/123 (9,8%) |
Trầm cảm | n (%) | 7/846 (0,8%) | 7/309 (2,3%) |
Nguồn: Phạm Thắng và Đỗ Thị Khánh Hỷ (2009)
1.1.4. Nhu cầu chăm sóc sức khỏe người cao tuổi
Nhu cầu là một khái niệm mang tính khách quan, có thể được hiểu là những thiếu hụt về một vấn đề nào đó. Nhu cầu chăm sóc sức khỏe là người bệnh thực sự mắc bệnh hoặc cần CSSK, cần được sử dụng các DVYT thích hợp để giải quyết vấn đề sức khỏe đó. Nhu cầu hàng đầu đối với CSSK là ph ng bệnh, phát hiện sớm bệnh, chữa bệnh kịp thời để tránh hoặc kéo dài thời gian chuyển sang mạn tính, di chứng. Thực hiện công tác phục hồi chức năng, điều dưỡng, chăm sóc cả tinh thần và thể chất nhằm giúp người bệnh h a nhập trở lại với sinh hoạt bình thường của cộng đồng xã hội [41].
Chăm sóc sức khỏe cho NCT là ph ng, chống sự già hóa quá sớm, đề ph ng và chữa trị các bệnh tuổi già sinh ra bằng nhiều biện pháp khác nhau qua đó nhằm cải thiện tình trạng sức khỏe (về cả thể xác lẫn tinh thần), giảm thiểu các bệnh mạn tính, tàn phế và tử vong khi bước vào tuổi già. Nhu cầu CSSK ở NCT khác với những nhóm tuổi khác. Các nhu cầu chăm sóc của NCT gồm: CSSK tâm thần, tâm lý, phục hồi về thính lực và thị lực, chăm sóc vệ sinh răng miệng, dinh dưỡng đầy đủ, hợp lý và an toàn, phục hồi chức năng, nhà ở, môi trường sống và ph ng, chống giảm các yếu tố nguy cơ [1]. Nhu cầu CSSK là những yêu cầu cấp thiết của NCT không chỉ phụ thuộc vào ý muốn chủ quan mà c n phụ thuộc khá nhiều vào chất lượng, giá thành, mức độ bệnh, khoảng cách và khả năng tiếp cận với các cơ sở CSSK của từng người.
Ở nhiều nước trên thế giới, việc chăm sóc NCT chủ yếu là do cá nhân NCT hoặc những người chăm sóc không chính thức gồm người thân, bạn bè và làng xóm (chủ yếu là phụ nữ). Ngay cả khi đã có các dịch vụ chăm sóc chính thức phù hợp thì chăm sóc không chính thức vẫn đóng vai tr chủ đạo. Tại các nước đang phát triển, NCT nghèo, cô đơn, không nơi nương tựa, NCT sống ở nông thôn, vùng xa trung tâm rất ít có cơ hội hoặc không thể tiếp cận được với các dịch vụ CSSK cần thiết [23]. Mặt khác, ở nhiều quốc gia xu hướng dân số không kết hôn hoặc kết hôn nhưng sinh con muộn lại đang có chiều hướng gia tăng dẫn đến mức sinh giữ ở mức thấp hơn mức sinh thay
thế. Số con trung bình của lớp người cao tuổi tương lai giảm đi rõ rệt, qua đó góp phần làm giảm sự hỗ trợ từ chính phía gia đình họ.
Ở Việt Nam, nhu cầu CSSK của người cao tuổi là rất lớn (chiếm 84,4%) trong khi điều kiện tự thân của người cao tuổi c n rất hạn chế [42]. Tình trạng NCT sống không có vợ/chồng chiếm tỷ lệ cao (14%), trong đó NCT nữ cô đơn cao gấp 5,44 lần so với NCT nam; phụ nữ cao tuổi sống ly hôn, ly thân gấp 2,2 lần so với nam giới [29], [54]. Việc phải sống một mình là điều kiện rất bất lợi đối với NCT, bởi gia đình luôn là chỗ dựa cơ bản cho mỗi thành viên khi về già. Về tình trạng kinh tế, thu nhập của NCT là rất thấp, 70% NCT không có tích lũy vật chất. Tình hình càng trở nên khó khăn đối với NCT sống ở khu vực nông thôn và miền núi. Kết quả điều tra của Viện Lão khoa Quốc gia tại 3 tỉnh/thành: Hà Nội, Thừa Thiên Huế và Bà Rịa - Vũng Tàu cho thấy, trong nhiều lý do khiến NCT không được KCB, lý do chính là không đủ khả năng kinh tế (45,3%), điều kiện đi lại khó khăn (17,3%), y tế địa phương không đáp ứng được (16,5%), lý do khác (20,9%) [53], [72]. Nhu cầu KCB giữa 2 khu vực thành thị và nông thôn không có nhiều khác biệt song ở khu vực nông thôn một tỷ lệ không nhỏ nhu cầu KCB chưa được đáp ứng (Bảng 1.4). Tỷ lệ NCT điều trị 1 lần trong 12 tháng chiếm 29,6%, điều trị 2 lần chiếm 28,7%, điều trị 3 lần chiếm 15,8%, điều
trị 4 lần chiếm 9,3% và điều trị 5 lần trở lên chiếm 16,7% [45].
Bảng 1.4. Số lần khám chữa bệnh trong vòng 12 tháng qua của người cao tuổi
Khu vực | Chung | |||||
Thành thị | Nông thôn | Tần số | % | |||
Tần số | % | Tần số | % | |||
1 lần | 71 | 37,4% | 62 | 23,8% | 133 | 29,6% |
2 lần | 51 | 26,8% | 78 | 30,0% | 129 | 28,7% |
3 lần | 30 | 15,8% | 41 | 15,8% | 71 | 15,8% |
4 lần | 11 | 5,8% | 31 | 11,9% | 42 | 9,3% |
≥ 5 lần | 27 | 14,2% | 48 | 18,5% | 75 | 16,7% |
Tổng số | 190 | 100,0% | 260 | 100,0% | 450 | 100,0% |
Nhu cầu chăm sóc sức khỏe ở NCT không chỉ là đơn thuần là những chăm sóc hằng ngày như nuôi dưỡng, chăm sóc khi ốm đau, NCT c n có nhu cầu rất cao đó là được chăm sóc về tinh thần. Theo Nguyễn Đình Cử, về mặt tinh thần, có 13% NCT gặp trắc trở, 60% thấy bình thường, chỉ có 20% cảm thấy thoải mái [20]. Ngày nay, cùng với sự phát triển của kinh tế, xã hội, gia đình nhiều thế hệ bắt đầu có xu hướng chuyển thành gia đình hạt nhân. Hiện tượng này thường gặp ở khu vực thành thị, nhưng hiện tại cũng đã trở nên phổ biến ở khu vực nông thôn. Mặt khác, dưới tác động của nền kinh tế thị trường, tốc độ đô thị hóa ngày càng tăng nhanh, người dân sống ở vùng nông thôn có xu hướng di dân vào thành phố để tìm kiếm việc làm đặc biệt là những thanh niên trẻ làm quy mô gia đình giảm, phụ nữ trở thành lao động chính, dẫn tới sự hỗ trợ từ phía gia đình trong CSSK NCT là rất hạn chế. Đây là một gánh nặng đối với NCT và làm cho nhu cầu chăm sóc về tinh thần của NCT từ con cái không được đáp ứng như mong đợi. Vì vậy, nhà nước, gia đình, cộng đồng cần quan tâm hơn nữa, cải thiện đời sống vật chất của NCT nhưng đồng thời phải chăm sóc hơn về mặt tinh thần thông qua những việc làm cụ thể, thiết thực như giáo dục cho con cháu biết quan tâm, kính trọng ông bà, cha mẹ, xây dựng mô hình CSSK toàn diện cho NCT, đảm bảo cho NCT được chăm sóc tốt hơn ngay tại nơi họ sinh sống.
1.1.5. Tiếp cận dịch vụ khám chữa bệnh của người cao tuổi
1.1.5.1. Khái niệm về tiếp cận
Trong y tế, khái niệm tiếp cận có thể được xem là khả năng đến và tiếp xúc được các dịch vụ CSSK, nơi đáp ứng việc khám chữa bệnh của người cao tuổi. Khả năng tiếp cận DVYT hoàn toàn khác việc sử dụng dịch vụ y tế. Việc có sử dụng DVYT hay không phụ thuộc vào mức độ bệnh tật, sự sẵn có của DVYT và nhiều yếu tố khác. Tiếp cận bao gồm cả 2 phía, phía người cao tuổi và dịch vụ y tế, phụ thuộc vào nhiều yếu tố: không gian, thời gian, chi phí, sự sẵn có, chất lượng dịch vụ, văn hóa xã hội và con người [2].
- Không gian: mặc dù Đảng và Nhà nước đã hết sức quan tâm tới tuyến y tế cơ sở nhưng do điều kiện kinh tế nên hầu hết các TYT xã vẫn chưa có khu vực KCB dành riêng cho NCT cũng như quy định nhiệm vụ riêng trong KCB cho người cao tuổi. Tuy nhiên, mỗi TYT cũng đã cố gắng trong việc tạo ra một không gian thân thiện, gần gũi đối với NCT nhằm giúp người cao tuổi dễ dàng hơn trong việc tiếp cận với các dịch vụ CSSK [11], [14].
- Khoảng cách và thời gian: đây là những yếu tố quyết định việc có hay không tiếp cận các dịch vụ CSSK của người cao tuổi [24]. Ngày nay, với phương tiện giao thông và thông tin liên lạc ngày càng hiện đại, NCT có thể tiếp cận đến các cơ sở y tế nhanh chóng và thuận tiện hơn, thời gian được rút ngắn đến mức tối thiểu, bệnh tật được phát hiện sớm và xử trí kịp thời.
- Chi phí: như đắt, rẻ, có khả năng chi trả hay không có khả năng chi trả. Đây là yếu tố quan trọng nhất, điều mà người sử dụng DVYT rất quan tâm, có tính chất quyết định trong việc lựa chọn dịch vụ, đặc biệt là những người có thu nhập thấp. Họ sẽ đến cơ sở y tế nào có giá thành rẻ mà chất lượng dịch vụ lại đảm bảo và tin cậy. Chi phí KCB bao gồm chi phí trực tiếp (chi phí trực tiếp cho khám và điều trị tại cơ sở y tế) và những chi phí gián tiếp (chi phí cho thuốc ngoài cơ sở y tế, cho ăn uống, đi lại, bồi dưỡng sức khỏe…). Pháp lệnh NCT quy định NCT từ 80 tuổi trở lên được Nhà nước bảo đảm chi phí KCB thông qua thẻ bảo hiểm y tế [69]. Tuy nhiên, phần lớn người cao tuổi từ 60 - 80 tuổi vẫn chưa có một chế độ ưu đãi riêng nào về vấn đề này. Vì vậy, chi phí KCB cho NCT dưới 80 tuổi cũng là vấn đề cần được quan tâm [31]. Đặc biệt, những người cao tuổi sống ở khu vực nông thôn, có nguồn thu nhập thấp và chủ yếu là từ sản xuất nông nghiệp, rất nhiều người trong số đó không đủ tiền để đến các cơ sở y tế khám chữa bệnh.
- Sự sẵn có và chất lượng dịch vụ: trình độ chuyên môn, phương tiện kỹ thuật, trang thiết bị... là những điểm mấu chốt trong việc lựa chọn dịch vụ của
NCT. Mong muốn chung của NCT là được thầy thuốc giỏi, có kinh nghiệm KCB và CSSK. Vì vậy, để nâng cao chất lượng dịch vụ CSSK cho NCT tại tuyến y tế cơ sở cần phải quan tâm hơn nữa tới việc đào tạo đội ngũ cán bộ y tế, đặc biệt là cán bộ chuyên ngành lão khoa cùng với đầu tư cơ sở hạ tầng, trang thiết bị.
- Văn hóa xã hội: Đây là yếu tố liên quan đến thái độ ứng xử và khả năng giao tiếp trong CSSK cho NCT, thái độ của các thành viên trong gia đình, tâm lý ngại phiền hà con cái, muốn được chết ở nhà… là những yếu tố ảnh hưởng không nhỏ đến việc lựa chọn cơ sở KCB của người cao tuổi. Ở nước ta đa phần người cao tuổi sống ở nông thôn nên số NCT phụ thuộc kinh tế vào con cái là tương đối lớn. Tâm lý ngại phiền hà con cái (về cả kinh tế và thời gian) thường gặp ở người cao tuổi nữ. Đây cũng là đặc điểm mang tính văn hóa của phụ nữ Việt Nam nói riêng và Á Đông nói chung.
- Yếu tố con người: trong đó vai tr của bình đẳng giới cũng như trình độ học vấn, hiểu biết về sức khỏe là những yếu tố quyết định hành vi tìm kiếm DVYT của NCT [85]. Vai tr thấp trong xã hội cũng là yếu tố làm hạn chế tính tự chủ trong việc ra quyết định, bao gồm cả quyết định CSSK cho chính bản thân NCT. Bên cạnh đó, vị trí thấp trong xã hội làm phụ nữ gặp nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm việc làm và khả năng chi trả cho các DVYT cũng bị hạn chế, họ không thể tự chi trả được nếu không có sự hỗ trợ từ người khác. Vị trí thấp kém làm ảnh hưởng tới khả năng tiếp cận DVYT do họ không có quyền tự quyết định. Việc lựa chọn nơi KCB thường do chồng hoặc những thành viên chủ chốt khác trong gia đình quyết định. Thời gian chờ đợi, sự bất đồng về ngôn ngữ giữa nhân viên y tế và người bệnh cũng là những rào cản trong tiếp cận DVYT của người dân nói chung cũng như người cao tuổi nói riêng [84].
Bên cạnh các yếu tố trên, c n tuỳ thuộc vào từng trường hợp bệnh lý và thói quen của NCT khi lựa chọn dịch vụ CSSK, đặc biệt là những địa điểm mà NCT thường sử dụng và có niềm tin từ trước. Như vậy, việc tiếp cận dịch