ĐẶT VẤN ĐỀ
Với sự tiến bộ của khoa học và công nghệ, sự phát triển của kinh tế, xã hội, đời sống của con người ngày càng được nâng lên, tuổi thọ trung bình ngày càng tăng, dân số Việt Nam đang có xu hướng già hoá nhanh cả về tỷ lệ và số lượng tuyệt đối. Theo Tổng Điều tra biến động Dân số và Kế hoạch hoá gia đình (01/4/2012), tỷ trọng người cao tuổi (tính từ 60 tuổi trở lên) trong dân số đã tăng nhanh từ 7,2% vào năm 1989 lên 8,2% vào năm 1999, 9,9% vào năm 2011 và 10,2% vào năm 2012 [4]. Dự báo tỷ lệ này có thể sẽ tăng đột biến và đạt 16,8% vào năm 2029 và 22% vào năm 2050 [20].
Tại Việt Nam, 72,9% người cao tuổi sống ở nông thôn và phần lớn trong số này là nông dân và làm nông nghiệp, 21% người cao tuổi được hưởng chế độ trợ cấp hưu trí hoặc mất sức và 70% c n lại sống chủ yếu bằng nỗ lực của chính mình. Chính vì vậy, khi đất nước chuyển sang cơ chế thị trường, họ là những người đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, phải thích nghi với nhiều thay đổi chưa từng có trước đây [20]. Khi tuổi cao, sức chống đỡ và sự chịu đựng của con người trước các yếu tố và tác nhân bên ngoài cũng như bên trong kém đi rất nhiều, đó chính là điều kiện thuận lợi để bệnh tật phát sinh, phát triển. Ngoài ra, ở người cao tuổi bệnh thường phát triển chậm chạp, âm thầm khó phát hiện và khi mắc bệnh thường mắc nhiều bệnh cùng một lúc, gây suy sụp sức khỏe rất nhanh chóng. Vì vậy, đối với người cao tuổi, nhu cầu được chăm sóc sức khỏe toàn diện như việc rèn luyện nâng cao sức khỏe về thể chất và tinh thần, khám phát hiện và điều trị bệnh kịp thời là rất cần thiết.
Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến công tác chăm sóc sức khoẻ cho người cao tuổi, đó là đạo lý thể hiện truyền thống “trọng lão” của dân tộc ta. Mặc dù đã có nhiều mô hình quản lý và chăm sóc sức khỏe người cao tuổi được nghiên cứu, triển khai ứng dụng ở nhiều nước trên thế giới cũng như ở Việt
Nam, nhưng việc áp dụng vào hoàn cảnh cụ thể của từng địa phương c n phụ thuộc vào các điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội, đặc biệt là người cao tuổi sống ở các khu vực nông thôn. Việc tìm kiếm một mô hình phù hợp để nâng cao sức khỏe, cải thiện chất lượng cuộc sống cho người cao tuổi ở khu vực nông thôn là một vấn đề quan trọng và mang tính đặc thù riêng.
Đông Anh là một huyện ngoại thành của Thủ đô Hà Nội có diện tích
18.230 ha, dân số 276.750 người. Đây là vùng đất có bề dày truyền thống lịch sử văn hóa, với nhiều thuận lợi về vị trí địa lý. Trong những năm gần đây tốc độ đô thị hóa của huyện diễn ra rất nhanh, số người cao tuổi cũng ngày một tăng cao, câu hỏi đặt ra là: (1) Tình hình sức khỏe và nhu cầu sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe của người cao tuổi Đông Anh ra sao? (2) Sự đáp ứng của gia đình và xã hội đến công tác chăm sóc sức khỏe người cao tuổi như thế nào? (3) Chính quyền, các ban, ngành, đoàn thể và y tế xã cần có những giải pháp nào để đáp ứng nhu cầu cơ bản về chăm sóc sức khỏe của người cao tuổi tại tuyến xã? Xuất phát từ những lý do trên chúng tôi tiến hành đề tài: “Nghiên cứu nhu cầu, đáp ứng dịch vụ chăm sóc sức khỏe người cao tuổi và thử nghiệm mô hình can thiệp cộng đồng tại huyện Đông Anh, Hà Nội”.
MỤC TIÊU ĐỀ TÀI:
1. Mô tả nhu cầu sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khoẻ người cao tuổi, thực trạng đáp ứng của trạm y tế xã và cộng đồng tại huyện Đông Anh, Hà Nội, năm 2012.
2. Đánh giá hiệu quả mô hình quản lý, tư vấn, chăm sóc sức khoẻ người cao tuổi dựa vào cộng đồng tại 2 xã của huyện Đông Anh, Hà Nội.
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN
1.1. NHU CẦU SỬ DỤNG VÀ KHẢ NĂNG ĐÁP ỨNG DỊCH VỤ CHĂM SÓC SỨC KHỎE NGƯỜI CAO TUỔI
1.1.1. Khái niệm người cao tuổi
Người cao tuổi là một khái niệm lịch sử, gây nhiều tranh cãi trên bình diện tiếp cận của các khoa học, trình độ phát triển của xã hội và các nền văn hóa. Trong cuốn Bách khoa quốc tế về xã hội học (International encyclopedia of sociology) phần Người cao tuổi và sự quan tâm của các tổ chức xã hội khi đưa ra khái niệm về người cao tuổi các tác giả phân chia theo độ tuổi như sau [42]:
+ 65 – 74: người cao tuổi trẻ; 75 – 84: trung cao tuổi; > 84: nhóm già. Tổ chức Y tế thế giới (WHO) lại phân chia các lứa tuổi của người già [93]:
+ 60 - 74: người cao tuổi; 75 - 90: người già; > 90: người già sống lâu.
Về mặt Pháp luật chung, theo Điều 2 trong Luật Người cao tuổi (11/2009) qui định người cao tuổi là “Công dân Việt Nam từ đủ 60 tuổi trở lên” [48]. Gần đây ở Việt Nam, khái niệm người cao tuổi được sử dụng phổ biến, tuy nhiên, về khoa học thì người già hay người cao tuổi đều được dùng với ý nghĩa như nhau.
1.1.2. Người cao tuổi trên thế giới và ở Việt Nam
1.1.2.1. Già hóa dân số
Già hóa dân số là một hiện tượng vừa mang tính tự nhiên vừa mang tính xã hội, có tác động mạnh mẽ đến đời sống kinh tế, xã hội của một quốc gia. Đây là dấu hiệu đặc trưng của thời đại, nó đánh dấu sự thành công của quá trình chuyển đổi nhân khẩu học với sự kết hợp giảm nhanh, giảm mạnh mức chết, mức sinh, làm thay đổi cơ cấu dân số tuổi và phân bố dân số của từng nhóm tuổi, làm tỷ lệ NCT tăng lên trong cơ cấu dân số [42].
Nhịp độ già hoá dân số ở nước ta trong Thập niên 90 của Thế kỷ XX và 10 năm đầu của Thế kỷ XXI đã nhanh hơn nhiều so với những năm 1980 (từ 25% lên 33% và 35%), cao hơn nhịp độ tăng dân số (dân số tăng 20% và dân số già tăng 25% giai đoạn 1979-1989; c n giai đoạn 1989-1999 các tỷ lệ tương ứng là 18% và 33%). Nếu nhìn toàn bộ thời kỳ từ 1979 đến 2007, dân số tăng lên 1,61 lần c n dân số cao tuổi tăng 2,17 lần. Tốc độ già hoá dân số nước ta khoảng 35 năm với tỷ lệ NCT tăng gấp đôi từ 5,8% (1989) lên 14% (2025) [4].
Chỉ số già hóa là một trong những chỉ tiêu quan trọng biểu thị xu hướng già hóa của dân số. Chỉ số này được tính bằng tỷ số giữa dân số từ 60 tuổi trở lên so với dân số dưới 15 tuổi tính theo phần trăm. Khi chỉ số này lớn hơn 100 tức là dân số cao tuổi lớn hơn dân số trẻ em. Theo Tổng Điều tra biến động Dân số và Kế hoạch hoá gia đình (01/4/2012), chỉ số già hóa tăng từ 18% năm 1989 lên 24,3% năm 1999, 37,9% năm 2010 và 42,7% năm 2012 (cao hơn mức trung bình của khu vực Đông Nam Á (30%)) [4].
Già hóa dân số trong bối cảnh trình độ phát triển kinh tế, xã hội c n thấp là một thách thức vô cùng to lớn. Mọi quốc gia đều phải đối mặt và giải quyết hàng loạt các vấn đề liên quan đến NCT như: dịch vụ CSSK NCT ngày càng gia tăng, sự tăng trưởng kinh tế phải đáp ứng đủ nhu cầu gia tăng nhóm phụ thuộc trong khi nhóm lao động lại giảm mạnh. Nói cách khác, nếu không chuẩn bị một cách kỹ lưỡng ngay từ bây giờ thì dân số già không khỏe mạnh và không có thu nhập bảo đảm cuộc sống sẽ buộc chính phủ phải có những khoản chi tiêu rất lớn và điều này sẽ tác động tiêu cực đến ngân sách nhà nước cũng như sự bền vững tài chính dài hạn của toàn bộ nền kinh tế.
1.1.2.2. Người cao tuổi trên thế giới
Theo qui ước của Liên Hợp Quốc, một quốc gia có tỷ lệ người cao tuổi từ 10% trở lên thì quốc gia đó được coi là dân số già. Pháp đạt tỷ lệ này từ năm 1935, Thụy Điển năm 1950. Thời gian để một nước tăng tỷ lệ người cao tuổi từ 7% lên 10% đạt ngưỡng dân số già rất khác nhau: Pháp 70 năm, Mỹ 35 năm,
Nhật Bản 15 năm. Như vậy, tốc độ già hóa dân số song song với tốc độ phát triển kinh tế, xã hội, tốc độ phát triển của mỗi quốc gia càng nhanh thì tốc độ già hóa dân số càng mạnh [20], [74].
Giữa các khu vực cũng có sự chênh lệch rõ rệt về số lượng và tỷ lệ NCT. Tỷ lệ NCT cao nhất ở các nước đã phát triển, chẳng hạn Thụy Điển khoảng 22% gấp hơn 3 lần Ấn Độ (7,2%) nhưng số lượng NCT nhiều nhất lại tập trung ở các nước đang phát triển. Trong số 1.120 triệu NCT có tới 805 triệu NCT sống ở các nước nghèo (chiếm tới 80% NCT của thế giới) (Bảng 1.1) [20].
Bảng 1.1. Số lượng và tỷ lệ người cao tuổi trên thế giới (1950-2050)
Đơn vị: triệu người
1950 | 1975 | 2000 | 2025 | 2050 | |
Số dân | 2500 | 3900 | 6080 | 8000 | 9150 |
Số người cao tuổi | 214 | 350 | 590 | 1120 | 2000 |
Tỷ lệ NCT (%) | 8,6 | 9,1 | 9,7 | 14,0 | 23,0 |
Số NCT ở các nước giàu | 95 | 166 | 230 | 315 | 400 |
Số NCT ở các nước nghèo | 119 | 180 | 360 | 805 | 1600 |
Có thể bạn quan tâm!
- Nghiên cứu nhu cầu, đáp ứng dịch vụ chăm sóc sức khỏe người cao tuổi và thử nghiệm mô hình can thiệp cộng đồng tại huyện Đông Anh, Hà Nội - 2
- Sử Dụng Dịch Vụ Chăm Sóc Sức Khỏe Ở Người Cao Tuổi
- Mô Hình Y Tế Viễn Thông Trong Chăm Sóc Sức Khỏe Người Cao Tuổi
Xem toàn bộ 142 trang tài liệu này.
Nguồn: Liên Hợp Quốc. World Population Prospects. The 2011 Revision
Số liệu bảng 1.1 cũng cho thấy: sau 50 năm (1950 - 2000), dân số tăng khoảng 2,43 lần, số NCT tăng 2,76 lần và số NCT ở các nước đang phát triển tăng lên tới 3,03 lần. Nếu 50 năm qua, người ta thường nói tới “bùng nổ dân số” thì phải nói “siêu bùng nổ người cao tuổi”, đặc biệt là ở các nước nghèo [20], [45]. Năm 2002, cứ 10 người dân thì có 1 NCT, ước tính đến năm 2050 cứ 5 người thì có 1 NCT. Phần lớn NCT là nữ (55%), trong đó nhóm từ 75 tuổi trở lên nữ chiếm 65% và tập trung chủ yếu tại các quốc gia phát triển [20].
Tỷ lệ người cao tuổi ở khu vực nông thôn và thành thị cũng có sự khác nhau. Năm 1975, tỷ lệ NCT ở nông thôn chỉ là 7,7% thấp hơn so với thành thị là 10,1%. Với xu hướng đô thị hóa ngày càng tăng trên toàn cầu, đặc biệt là ở các nước đang phát triển, dự báo trong 20 năm tới số lượng NCT ở thành thị sẽ lên
tới 318 triệu người, vượt xa so với nông thôn (khu vực này chỉ c n 257 triệu NCT). Đáng chú ý hơn cả là số người trong nhóm tuổi già nhất (trên 80 tuổi) sẽ tăng nhanh nhất từ 86 triệu năm 2005 lên 394 triệu năm 2050 [42]. Tốc độ già hóa nhanh chóng ở các nước đang phát triển dẫn tới những thay đổi về cấu trúc và vai tr của gia đình. Hiện tượng lớp trẻ dồn về thành phố tìm việc để lại người già ở nông thôn, từ đó làm cho phụ nữ trở thành lao động chính và dẫn tới tình trạng ngày càng có ít người chăm sóc người cao tuổi khi già yếu tại gia đình.
1.1.2.3. Người cao tuổi Việt Nam
Cùng với xu hướng chung của thế giới, quá trình già hoá dân số ở Việt Nam cũng đang diễn ra với tốc độ ngày càng nhanh, qui mô ngày càng lớn. Quá trình già hóa dân số ở Việt Nam là sẽ “già ở nhóm già nhất”, nghĩa là tốc độ tăng và số lượng người cao tuổi ở độ tuổi cao nhất (từ 80 tuổi trở lên) sẽ ngày càng lớn. Số liệu từ bốn cuộc Tổng điều tra Dân số và Nhà ở giai đoạn 1979 - 2009 cho thấy (Bảng 1.2), tỷ lệ NCT ở nhóm tuổi thấp nhất (từ 60-69) tăng chậm, trong khi tỷ lệ NCT ở nhóm cao tuổi trung bình (70-79) và già nhất (80+) có xu hướng tăng nhanh hơn. Dự báo của GSO (2010) cho giai đoạn 2009 - 2049, khi Việt Nam bước vào giai đoạn dân số “già” cũng là lúc nhóm dân số cao tuổi nhất tăng với tốc độ cao nhất [66], [68].
Bảng 1.2. Dân số Việt Nam “già ở nhóm già nhất”
1979 | 1989 | 1999 | 2009 | 2019 | 2029 | 2039 | 2049 | |
60-64 | 2,28 | 2,40 | 2,31 | 2,26 | 4,29 | 5,28 | 5,80 | 7,04 |
65-69 | 1,90 | 1,90 | 2,20 | 1,81 | 2,78 | 4,56 | 5,21 | 6,14 |
70-74 | 1,34 | 1,40 | 1,58 | 1,65 | 1,67 | 3,36 | 4,30 | 4,89 |
75-79 | 0,90 | 0,80 | 1,09 | 1,40 | 1,16 | 1,91 | 3,28 | 3,87 |
80+ | 0,54 | 0,70 | 0,93 | 1,47 | 1,48 | 1,55 | 2,78 | 4,16 |
Nguồn: Tổng điều tra dân số 1989, 1999 và 2009 và dự báo dân số của GSO (2010)
So với các quốc gia khác trên thế giới, thậm chí với nhiều nước phát triển hoặc có mức thu nhập bình quân đầu người cao hơn, tốc độ già hóa dân số Việt Nam khá cao. Cụ thể, số năm để tỷ lệ dân số từ 65 tuổi trở lên của Việt Nam tăng từ 7% lên 14% tổng dân số (hay thời gian để dân số quá độ từ giai đoạn “già hóa” sang “già”) là ngắn hơn nhiều nước: Pháp mất 115 năm, Thụy Điển mất 85 năm, Mỹ mất 69 năm, Nhật Bản và Trung Quốc mất 26 năm, trong khi Việt Nam chỉ mất 20 năm. Với điều kiện kinh tế, xã hội phát triển như hiện nay thì đây thực sự là thách thức lớn cho Việt Nam trong việc thích ứng với một dân số “già hóa” nhanh [20], [68].
Cơ cấu người cao tuổi hiện nay cho thấy, ở Việt Nam đa phần NCT sống ở nông thôn, là nông dân và làm nông nghiệp dù rằng quá trình đô thị hóa đang diễn ra nhanh chóng ở Việt Nam. Tổng điều tra Dân số năm 2009 cho thấy có 72,9% NCT sống ở nông thôn. Trong số NCT, chỉ có khoảng 16 - 17% được hưởng lương hưu hoặc mất sức, hơn 10% hưởng trợ cấp người có công với nước. Như vậy, c n trên 70% NCT hiện nay sống bằng lao động của mình, bằng nguồn hỗ trợ của con cháu và gia đình [20]. Trong khi đó, ở nông thôn ruộng đất ít, năng suất, thu nhập thấp, ít có tiết kiệm ph ng khi bất trắc tuổi già. Thực tế này đ i hỏi chính sách đối với NCT cần hướng đến nông thôn, cần xây dựng và triển khai chính sách bảo hiểm xã hội cho nông dân, đẩy mạnh nghiên cứu các hình thức hoạt động phù hợp cho NCT ở nông thôn, đặc biệt NCT cô đơn, không nơi nương tựa, người cao tuổi có hoàn cảnh khó khăn…
Xét theo vùng kinh tế - xã hội, người cao tuổi nước ta phân bố không đồng đều, tập trung ở 3 vùng có đông dân cư nhất trong cả nước là đồng bằng sông Hồng, đồng bằng sông Cửu Long và Bắc Trung bộ. Đồng bằng sông Hồng có số lượng người cao tuổi cao nhất trong cả nước (chiếm 25,41% số NCT), tiếp đến là đồng bằng sông Cửu Long (chiếm 20,95%) và Bắc Trung bộ 15,2% (Bảng 1.3) [68].
Bảng 1.3. Phân bố dân số cao tuổi theo khu vực và vùng
1992/93 | 1997/98 | 2002 | 2004 | 2006 | 2008 | |
Vùng | ||||||
ĐB sông Hồng | 23,95 | 23,78 | 25,35 | 25,78 | 25,64 | 25,41 |
Đông Bắc | 13,11 | 13,73 | 10,89 | 10,46 | 10,03 | 10,39 |
Tây Bắc | 1,83 | 1,73 | 2,13 | 1,93 | 1,71 | 1,43 |
Bắc Trung Bộ | 13,00 | 14,48 | 13,87 | 12,59 | 12,92 | 15,2 |
Nam Trung Bộ | 10,89 | 8,68 | 9,79 | 9,93 | 9,62 | 8,64 |
Tây Nguyên | 2,03 | 1,85 | 4,01 | 3,4 | 3,82 | 3,07 |
Đông Nam Bộ | 13,61 | 15,56 | 14,0 | 15,37 | 15,63 | 14,92 |
ĐB sông Cửu Long | 21,52 | 20,20 | 19,94 | 20,55 | 20,63 | 20,95 |
Khu vực | ||||||
Nông thôn | 77,73 | 76,06 | 76,83 | 73,33 | 72,30 | 72,49 |
Thành thị | 22,27 | 23,94 | 23,17 | 26,67 | 27,70 | 27,51 |
Nguồn: Điều tra mức sống dân cư (hộ gia đình) - 2008
Có thể nói, mô hình biến động dân số của Việt Nam khá giống Trung Quốc, Hàn Quốc và một số quốc gia khác. Đây là những nước có dân số chuyển từ loại trẻ sang già và dự báo đến giữa thế kỷ XXI, dân số Việt Nam c n ở mức già hơn cơ cấu dân số chung của thế giới. Sự gia tăng dân số NCT sẽ dẫn đến nhiều hệ luỵ, điều đó đang là một thách thức lớn đặt ra cho gia đình và toàn xã hội. Vì vậy, cần phải đẩy mạnh hơn nữa việc nghiên cứu quá trình già hóa từ đó tiên lượng tình trạng và chủ động nghiên cứu kinh nghiệm của các nước nhằm nâng cao chất lượng sống cho NCT ở Việt Nam.
1.1.3. Các bệnh thường gặp ở người cao tuổi
Thách thức lớn nhất đối với việc chăm sóc sức khỏe người cao tuổi hiện nay là mô hình và nguyên nhân bệnh tật của NCT đang thay đổi nhanh chóng khiến cho gánh nặng “bệnh tật kép” ngày càng rõ. Một mặt, NCT đang phải chịu nhiều bệnh do lão hóa gây ra; mặt khác, NCT cũng phải chịu các bệnh phát sinh do thay đổi lối sống dưới tác động của quá trình tăng