Định Nghĩa, Mô Hình Và Công Cụ Đo Lường Về Năng Lực Cảm Xúc


CHƯƠNG 1:

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NĂNG LỰC CẢM XÚC CỦA NHÀ QUẢN TRỊ CẤP TRUNG TRONG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM

1.1. Định nghĩa, mô hình và công cụ đo lường về năng lực cảm xúc

1.1.1. Nguồn gốc và mức độ quan tâm đến năng lực cảm xúc

Quan tâm đến năng lực cảm xúc (Emotional Intelligence- EI) đã nở rộ trong những năm gần đây, EI được dự báo là có ảnh hưởng đến sự phát triển tổ chức và phát triển con người; EI cung cấp một cách tiếp cận mới để hiểu và đánh giá hành vi, phong cách quản lý, khả năng, kỹ năng… của một cá nhân. Chính vì thế năng lực cảm xúc là một chủ đề nghiên cứu được quan tâm của khá nhiều học giả, các nhà nghiên cứu.Các nghiên cứu phần lớn hướng đến nghiên cứu về EI với thống nhất định nghĩa và các yếu tố cấu thành EI và hướng đến dự đoán EI là một trong những yếu tố quyết định hiệu suất của môi trường làm việc nhiều hơn so với cấu trúc truyền thống sử dụng như trí thông minh nói chung và tính cách (Mayer, 2001; Watkin, 2000). Hiệu suất công việc phụ thuộc nhiều vào mối quan hệ giữa các cá nhân, sự khoan dung, khả năng thích ứng và làm việc theo nhóm; đó cũng chính là những hành vi quan trọng của cá nhân tại nơi làm việc và năng lực cảm xúc được coi như là tạo ra môi trường cho các năng lực khác phát huy tối đa. Nói chung, năng lực cảm xúc được nhìn nhận là cơ sở cho các định nghĩa rộng về hiệu quả giữa các cá nhân tại nơi làm việc, và do đó có thể là một đóng góp hữu ích cho sự hiểu biết của chúng ta về các biến như hiệu quả làm việc nhóm, giao tiếp, đàm phán, thực hiện công việc, lãnh đạo và động viên (Goleman, 1998).

Trở lại lịch sử, Charles Darwin là người đầu tiên nhận ra giá trị của cảm xúc. Trong nghiên cứu của mình về cảm xúc, hành vi của động vật và con người, Darwin nhận ra rằng những hành vi bày tỏ cảm xúc (chủ yếu qua gương mặt) rất là phổ biến và được truyền từ xa xưa trong rất nhiều động vật và kể cả con người. Cảm xúc có hai khía cạnh: thứ nhất là cảm giác do mình cảm nhận bên trong (tính chủ quan) và thứ hai là hành vi được bày tỏ ra ngoài (tính khách quan).

Năm 1922, giáo sư tâm lý học EdwardLee Thorndike đưa viết vềtrí thông minh xã hội (Social Intelligence – SI), theo ông thì trí thông minh xã hội là năng lực mà một người dùng để hành động một cách khôn ngoan trong các quan hệ của con người. Ông


cho rằng trí thông minh xã hội là khảnăng thấu hiểu người khác và khả năng hành động thích hợp trong mối quan hệ giữa cáccá nhân, cũng tham gia vào chỉ số thông minh của một cá nhân. Nối tiếp ông, các nhà tâmlý học, khi tiếp cận những khía cạnh khác nhau của trí thông minh xã hội một cách riêngrẽ, đã làm nổi bật vai trò quyết định của yếu tố xã hội đối với trí thông minh.

Tuy nhiên, với sự phát triển của xã hội phương Tây giai đoạn Đại công nghiệp, nói đến trí thông minh, xã hội vẫn dành sự chú ý nhiều hơn đến năng lực nhận thức, tư duy theo cách hiểu truyền thống, được đo bằng các trắc nghiệm IQ về năng lực suy luận logic – toán và năng lực ngôn ngữ, năng lực nhớ kiến thức. Cho đến tận năm 1983, khi mà Howard Gardner, nhà tâm lý học người Mỹ, công bố tác phẩm “Lý thuyết đa trí tuệ” (The theory of Multiple Intelligences – viết tắt là lý thuyết MI), các học giả và công chúng bắt đầu quan tâm đến nhiều thành phần khác nhau trong cơ cấu trí tuệ của con người. Cốt lõi của lý thuyết tâm lý học MI là sự thừa nhận nhiều thành phần trí tuệ trong năng lực con người. Những dạng trí tuệ khác nhau đó là: trí tuệ ngôn ngữ, trí tuệ âm nhạc, trí tuệ logic – toán, trí tuệ không gian, trí tuệ về vận động - cơ thể, và trí tuệ về con người (trí tuệ về con người lại bao gồm hai thành phần: trí tuệ về bản thân (intrapersonal intelligence) – hiểu mình, và trí tuệ về người khác (interpersonal intelligence) – hiểu về người khác). Vào giữa thế kỷ XX, Fleishman và Harris (1962) chỉ ra rằng “sự quan tâm” là một khía cạnh quan trọng của sự lãnh đạo hiệu quả. Cụ thể hơn, nghiên cứu này gợi ý rằng những người lãnh đạo mà có thể thiết lập được “sự tin cậy, kính trọng lẫn nhau, và sự hòa hợp, ấm áp một cách bền vững” với các thành viên trong nhóm của họ thì sẽ đạt hiệu quả lãnh đạo tốt hơn. Để thiết lập được điều đó, ít nhất phải có năng lực nhận thức để hiểu về bản thân và hiểu về người khác.

Ở khía cạnh nhận thức về chính mình và người khác thì Reuven Bar-On là người đặc biệt quan tâm đến khía cạnh những diễn biến cảm xúc ở con người. Cảm xúc chi phối rất mạnh đến hành vi, quan hệ xã hội của chúng ta. Vì vậy, nhận biết về cảm xúc là rất quan trọng để có được những hành vi thông minh. Trong luận án tiến sĩ của mình (1985), ông nêu ra 5 yếu tố liên quan đến năng lực/ trí thông minh giúp cá nhân có khả năng thành công hơn những người khác, bao gồm: năng lực nhận diện và làm chủ cảm xúc của mình, năng lực nhận diện và điều khiển cảm xúc của những người khác, năng lực thích ứng, kiểm soát áp lực (stress), tâm trạng chung. Và những yếu tố


này cũng là cơ sở ban đầu minh chứng về việc năng lực cảm xúc có nguồn gốc từ trí thông minh xã hội.

Kế thừa và phát triển tư tưởng của Thorndike và Gardner, hai tác giả P.Salovey và J.Mayer cũng đặc biệt quan tâm đến năng lực nhận thức và kiểm soát cảm xúc của con người. Trong bối cảnh xã hội hiện đại, cuộc sống vật chất dồi dào hơn nhưng áp lực tinh thần, căng thẳng cũng nhiều hơn; sự thiếu kiểm soát cân bằng đời sống cảm xúc có thể gây bất hạnh cho bản thân và người khác, cho cộng đồng. Ngược lại, sự nhận thức và kiểm soát cảm xúc tốt giúp thích ứng tốt với hoàn cảnh. Năm 1990, Salovey và Mayer lần đầu tiên sử dụng thuật ngữ "năng lực cảm xúc (EI)” và xác định năng lực cảm xúc của mỗi cá nhân là khả năng kiểm soát những tình cảm và xúc cảm của bảnthân và của người khác, phân biệt chúng với nhau và sử dụng những thông tin thu đượcđểđịnh hướng suy nghĩ và hành động của mình (trang 189).P.Salovey và J.Mayer cũng khởi xướng một chương trình nghiên cứu nhằm phát triển các thang đo có hiệu lực về năng lực cảm xúc và khám phá tầm quan trọng của năng lực cảm xúc.

Vào đầu những năm 1990, Daniel Goleman - người biên tập khoa học cho tờ New York Times, phụ tráchlĩnh vực về những nghiên cứu về não và hành vi, đã chú ý theo dõi các nghiên cứu của P.Salovey và J.Mayer và các công trình khác liên quan đến năng lực cảm xúc. Sau đó, D.Goleman viết cuốn sách “Emotional Intelligence” (xuất bản năm 1995) – một trong những cuốn sách bán chạy nhất trên thị trường Mỹ lúc đó và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng. Kể từ khi cuốn sách này ra đời, công chúng mới thực sự chú ý đến chủ đề năng lực cảm xúc. Trước đó, khi D.Goleman làm luận án tiến sĩ Tâm lý học tại Đại học Harvard, ông đã từng cộng tác với giáo sư David McClelland và những cộng sự khác để nghiên cứu vấn đề: Tại sao các trắc nghiệm đo trí thông minh ít nói cho chúng ta biết cái gì tạo nên thành công của con người trong cuộc sống? Sau cuốn sách đầu tiên về năng lực cảm xúc, D.Goleman tiếp tục viết một loạt sách khác về năng lực cảm xúc như:"Năng lực cảm xúc ứng dụng trong công việc" (1998), “Nghệ thuật lãnh đạo cơ bản: Việc nhận thấy sức mạnh của năng lực cảm xúc” (2002), và bài báo nổi tiếng “Cái gì làm nên người lãnh đạo?” (1998) đề cập đến vai trò của năng lực cảm xúc đối với sự thành công của con người nơi làm việc, đặc biệt là với những người làm công việc lãnh đạo và quản lý. Daniel Goleman (1995) đã chỉ ra tầm quan trọng của năng lực cảm xúc tại nơi làm việc, Goleman lưu ý rằng chỉ số IQ là một yếu tố dự báo kém phần mạnh mẽ hơn EQcủa lãnh đạo xuất sắc. Và cũng từ thời điểm đó, năng lực cảm xúc là một chủ đề nghiên cứu được nhiều học giả quan tâm và một số


học giả như Bar-On (1997), Cooper và Sawaf (1996), Goleman (1998), và Weisinger (1998)… đã tạo ra quan niệm riêng của họ về năng lực cảm xúc.

1.1.2.Định nghĩa về năng lực cảm xúc (Emotional Intelligence)

Emotional Intelligence (EI)là một thành tố trí tuệ mới được đề cập đến vào khoảng thập niên 80 của thế kỷ XX. EI nhanh chóng nhận được sự chú ý của nhiều nhà khoa học, với nhiều định nghĩa được đưa ra, tuy nhiên EI thường được tiếp cận ở 3 khía cạnh và được định nghĩa như sau:

EIđược nhìn nhận dưới góc độ với nhằm mục đích bổ sung các quan điểm truyền thống của trí thông minh bằng cách nhấn mạnh những đóng góp tình cảm, cá nhân, xã hội và hành vi thông minh (Gardner, 1983; Mayer và Salovey, 1995; Wechsler, 1958). McMullen (2002) cho rằng năng lực cảm xúc là khả năng quản lý cảm xúc của một cá nhân và không trái ngược với trí thông minh; Gardner cho rằng năng lực cảm xúc là khả năng đọc cảm xúc (tôi đang thực sự cảm thấy những cảm xúc gì?) và hiểu cảm xúc (tại sao tôi cảm thấy cảm xúc này? Nó đang ở mức độ nào) của bản thân hay của người khác. Hay có thể hiểu năng lực cảm xúc là năng lực khám phá những tình cảm của mình và năng lực lựa chọn tình cảm để hướng dẫn ứng xử của mình theo sự lựa chọn ấy và năng lực nắm được tâm trạng, tính khí, động cơ và ham muốn của người khác và phản ứng lại một cách thích hợp.

EI được định nghĩa như là một năng lực xử lý các thông tin về cảm xúc (Mayer và Salovey, 1997). Và cũng từ đây thuật ngữ “Emotional Intelligence”được hiểu là năng lực cảm xúc được các học giả chấp nhận. Theo Salovey và Mayer (1990), năng lực cảm xúc là năng lực nhận biết, hiểu rõ và làm chủ các cảm xúc của bản thân; năng lực nhận biết (thấu hiểu) cảm xúc của người khác; năng lực vận dụng những thông tin về cảm xúc đó để định hướng suy nghĩ, hành động của bản thân. Sau đó, hai tác giả đã sửa đổi định nghĩa năng lực cảm xúc (Salovey và Mayer,1997), “Năng lực cảm xúc là khả năng nhận thức, đánh giá chính xác về cảm xúc; khả năng tiếp cận và/hoặc tạo ra cảm xúc khi những cảm xúc này tạo điều kiện thúc đẩy tư duy; khả năng hiểu cảm xúc và có kiến thức về cảm xúc; và khả năng điều chỉnh cảm xúc để đẩy nhanh sự phát triển về cảm xúc và trí tuệ” (J.Mayer và P. Salovey, 1997).

Dựa các công trình nghiên cứu của Salovey và Mayer, Goleman cho rằng EI nên được coi là một định nghĩa rộng hơn bao gồm đặc điểm tính cách, yếu tố động lực, và nhiều kỹ năng xã hội khác nhau (ví dụ, Bar-On, 2000; Boyatzis, Goleman và Rhee,


2000; Goleman, 1995, 1998). Goleman (1998) cho rằngEI là "năng lực để nhận biết cảm giác của chúng ta và những người khác, để thúc đẩy bản thân mình, và để quản lý cảm xúc tốt trong chính chúng ta và trong các mối quan hệ của chúng ta". Trong khi Bar-On (1997) định nghĩa năng lực cảm xúc là "một loạt các khả năng nhận thức, năng lực và kỹ năng thích ứng đối với các yêu cầu và áp lực của môi trường làm việc và ảnh hưởng đến khả năng thành công trong công việc của một cá nhân". Goleman (2001) định nghĩa: năng lực cảm xúc là khả năng nhận thức cảm giác của bản thân và những người khác, nhằm là thúc đẩy bản thân và để kiểm soát cảm cảm xúc bản thân hay trong các mối quan hệ. Tuy nhiên, ngay trong nội dung cuốn sách “trí tuệ cảm xúc - ứng dụng trong công việc” thì Goleman đã viết: Lý thuyết toàn diện về năng lực cảm xúc đã được hai nhà tâm lý học Peter Salovery giảng dạy tại trường đại học Yale và Yohn Mayer thuộc trường Đại học New Hampsire, đề xuất năm 1990. Salovery và Mayer đã định nghĩa được năng lực cảm xúc ở khía cạnh có thể kiểm soát và điều chỉnh xúc cảm bản thân, của những người khác và sử dụng những cảm xúc đó để định hướng suy nghĩ, hành động”


Như vậy dưới góc độ tiếp cận thuần năng lực, năng lực cảm xúc lànăng lực nhận biết, hiểu rõ và làm chủ các cảm xúc của bản thân; năng lực nhận biết (thấu hiểu) cảm xúc của người khác; năng lực vận dụng những thông tin về cảm xúc đó để định hướng suy nghĩ, hành động của bản thân.


1.1.3 Mô hình năng lực cảm xúc

Nghiên cứu về EI là chủ đề được nhiều nhà khoa học thực hiện trong thời gian qua, tuy nhiên với những góc độ tiếp cận khác nhau đã đưa đến những định nghĩa và mô hình khác nhau về EI. Từ các định nghĩa về EI có thể chia ra thành hai mô hình: mô hình khả năng và mô hình kết hợp. Mô hình khả năng chú trọng vào việc cảm xúc ảnh hưởng đến suy nghĩ, quyết định, kế hoạch và hành động của nhà lãnh đạo như thế nào. Trong khi đó, mô hình kết hợp được xây dựng trên cơ sở EI không chỉ bao gồm các khả năng về cảm xúc mà còn bao gồm nhiều thuộc tính khác như tính cách, động cơ cá nhân và kỹ năng xã hội,…Tuy nhiên, để thấy được mô hình nào phù hợp với mục đích nghiên cứu, chúng ta cần tìm hiểu rõ về từng mô hình:


1.1.3.1. Mô hình thuần năng lực

Salovey và cộng sự John Mayer là những người đầu tiên sử dụng thuật ngữ và đưa ra định nghĩa về "Emotional Intelligence", ban đầu năng lực cảm xúc được xác địnhEI là khả năng của một cá nhân kiểm soát và đánh giá cảm xúc của mình và của những người khác, cũng như khả năng nhận biết cảm xúc và và sử dụng những cảm xúc đó để định hướng suy nghĩ, hành động. Dựa trên định nghĩa này, năm 1990 hai tác giả đã đưa ra mô hình thuần năng lực về năng lực cảm xúc gồm ba thành phần: Đánh giá và biểu hiện cảm xúc, Điều chỉnh cảm xúc, Sử dụng cảm xúc.




Bản thân

Người khác

Bản thân

Người

Lập kế

Suy

Hướng

Động




khác

hoạch

linh

nghĩ

sáng

sự tập

trung,

lực

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 186 trang tài liệu này.

Nghiên cứu năng lực cảm xúc của nhà quản trị cấp trung trong các ngân hàng thương mại Việt Nam - 3


Hành

Hành

Nhận thức

Sự thấu

vi

vi phi

hành vi

cảm

ngôn

ngôn

phi ngôn


ngữ

ngữ

ngữ



Năng lực cảm xúc

Đánh giá và biểu hiện cảm xúc

Điều chỉnh cảm xúc

Sử dụng cảm xúc

hoạt

tạo

chú ý

Nguồn: Salovey, P., & Mayer, J. (1990), Emotional intelligence, Imagination, cognition, and personality, 9(3), pp.185-211.

Hình 1.1 Mô hình EI của P. Salovey và J. Mayer (1990)

Mô hình EI 90 cho rằng những cá nhân có năng lực cảm xúc phát triển cao thường dễ dàng trong:

(i) Hiểu biết về cảm xúc: ý thức về bản thân – Nhận thức và đánh giá chính xác xúc cảm của bản thân. Năng lực này có ý nghĩa căn bản đối với sự hiểu biết về bản thân và


trực giác tâm lý. Ai bị mù về những gì mình cảm nhận được sẽ bị phó mặc cho những tình cảm của mình. Trái lại, những người biết chắc chắn về cảm giác, xúc cảm của mình có thể sẽ sống lạc quan hơn, cảm nhận chân thực và đúng đắn hơn về các quyết định của mình

(ii) Làm chủ cảm xúc: biểu lộ tình cảm, xúc cảm với những người khác một cách đúng đắn, phù hợp với hoàn cảnh. Những người không làm chủ được cảm xúc bản thân thường dễ bị chi phối bởi cảm xúc và có thể có những biểu hiện như lo âu, buồn rầu và giận dữ thái quá; Những người có năng lực đó thì chịu đựng được thất bại và những điều không mong muốn trong cuộc đời tốt hơn.

(iii) Nhận biết, thấu hiểu các xúc cảm của người khác và từ đó có những hành vi xã hội phù hợp. Những người biết thấu cảm có năng khiếu về dạy học, mua bán, quản lý và những nghề lấy lợi ích của người khác làm hàng đầu;

(iv) Điều chỉnh xúc cảm của bản thân và người khác một cách có hiệu quả để đạt đến mục đích hành động cụ thể. Năng lực điều chỉnh cảm xúc là cơ sở của mọi sự hoàn thiện. Năng lực tự đặt mình vào trạng thái tâm lý cho phép làm những điều xuất sắc, những người có năng lực này sẽ làm việc vô cùng hiệu quả;

(v) Sự làm chủ những quan hệ con người: Nghệ thuật của sự quan hệ phần lớn là kỹ năng điều khiển các xúc cảm của mình và người khác -Sử dụng những xúc cảm của mình để giải quyết vấn đề bằng những hành vi phù hợp hoàn cảnh. Những người biết cách làm cho mình được lòng mọi người, biết lãnh đạo và hướng dẫn có hiệu quả những quan hệ của mình với người khác đều có sự làm chủ này ở mức cao nhất. Họ thành công trong mọi công việc dựa vào những quan hệ hòa hợp.

Trong khi mô hình EI 90 chưa được xem xét các thành phần như một qui trình liên tục thì ở mô hình EI 97, sau nhiều năm nghiên cứu (thử nghiệm, cập nhật tri thức, số liệu khoa học) các tác giả J. Mayer, P. Salovey và D. Caruso đã chứng minh rằng, các năng lực này không chỉ có quan hệ về mặt cấu trúc tâm lý mà hơn nữa chúng còn có quan hệ về qui trình thứ tự hình thành theo thứ bậc của quá trình tâm lý. Mô hình EI 97 bao gồm các năng lực:

(1) Năng lực nhận biết các cảm xúc: gồm một phức hợp các kỹ năng cho phép một cá nhân biết cách cảm nhận, thấu hiểu và biểu lộ các cảm xúc. Các năng lực cụ thể ở đây bao gồm nhận dạng những cảm xúc của mình và của người khác, bày tỏ cảm xúc của


mình và phân biệt được những dạng cảm xúc mà người khác biểu lộ -thông qua những thông tin được truyền tải, tiếp nhận qua nét mặt, giọng nói, cử chỉ, tư thế cơ thể, màu sắc và các dấu hiệu khác ( như qua những câu chuyện người đó kể, sở thích âm nhạc, nghệ thuật, hoăc những điều làm người đó phấn khích…)

(2) Năng lực sử dụng các cảm xúc để hỗ trợ, thúc đẩy tư duy: năng lực này được hiểu là khả năng của một cá nhân trong việc sử dụng cảm xúc để hỗ trợ óc phán xét và tư duy; nhận thức được rằng những thay đổi tâm trạng có thể dẫn đến sự xem xét những quan điểm thay thế và hiểu rằng một sự thay đổi trong trạng thái cảm xúc và cách nhìn có thể khuyến khích nảy sinh các loại năng lực giải quyết vấn đề khác nhau

(3) Năng lực thấu hiểu các cảm xúc và qui luật của cảm xúc: năng lực này được hiểu là khả năng của một cá nhân trong việc hiểu rõ về cảm xúc và nguyên nhân, tiến trình phát triển của cảm xúc, bao gồm các khả năng như định nghĩa và phân biệt được các loại cảm xúc khác nhau (ví dụ sự khác biệt giữa yêu và ghét), hiểu được sự pha trộn phức tạp của các loại tình cảm và đề ra các quy luật về tình cảm: chẳng hạn sự tức giận loại bỏ được sự e thẹn, sự mất mát thường kéo theo sự buồn chán

(4) Năng lực quản lý các cảm xúc: năng lực này được hiểu là khả năng của một cá nhân trong việc kiểm soát, tự điều khiển các cảm xúc của bản thân, sắp đặt các cảm xúc nhằm hỗ trợ một mục tiêu xã hội nào đó, điều khiển cảm xúc của người khác. Ở mức độ phức tạp này năng lực cảm xúc gồm các kỹ năng cho phép cá nhân tham gia có chọn lọc vào các loại cảm xúc nào đó hoặc thoát ra khỏi những loại cảm xúc nào đó, để điều khiển, kiểm soát các cảm xúc của mình và của người khác.

1.1.3.2. Mô hình kết hợp

Ngoài mô hình năng lực cảm xúc theo thuần năng lực, thì cũng có cách tiếp cận xây dựng mô hình năng lực cảm xúc theo hướng kết hợp giữa các khả năng về cảm xúc và cách thuộc tính khác như tính cách, động cơ, kỹ năng xã hội… Đại diện tiêu biểu xu hướng này, có một số tác giả tiêu biểu như Reuven Bar-On, Daniel Goleman, K.V.Petrides và A. Furnham…


Mô hình năng lực cảm xúc của Reuven Bar-On

Nhà tâm lý học Reuven Bar-On cho rằng EI dựa trên năng lực/ khả năng hiểu biết về cảm xúc và hiểu biết xã hội của một cá nhân. Các năng lực này ảnh hưởng đến

Xem toàn bộ nội dung bài viết ᛨ

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 04/05/2023