Thực Trạng Chó Đến Khám Bị Viêm Tử Cung Theo Lứa Đẻ

tỷ lệ mắc 14,29% và chó đã đẻ 3 và 4 lứa có tỷ lệ mắc bệnh rất thấp (3,36% và 1,68%).

Bảng 4.4. Thực trạng chó đến khám bị viêm tử cung theo lứa đẻ


Lứa đẻ

Số ca (con)

Tỷ lệ (%)

0

66

55,46d

1

30

25,21c

2

17

14,29b

3

4

3,36a

4

2

1,68a

Tổng

119

100

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 167 trang tài liệu này.

Nghiên cứu một số chỉ tiêu lâm sàng, phi lâm sàng, ứng dụng siêu âm chẩn đoán và điều trị bệnh viêm tử cung trên chó - 10

Chú thích: Các chữ cái trên cùng một cột khác nhau là tỷ lệ viêm tử cung khác nhau có ý nghĩa thống kê (P<0,05)

Kết quả trên tương đương với kết quả nghiên cứu của Fukuda (2001), khi thực hiện đánh giá trên 25 chó Beagle viêm tử cung, tỷ lệ mắc bệnh đạt 60% ở chó chưa sinh sản và 40% chó đã đẻ từ 1 đến 3 lứa. Tương tự, nghiên cứu Niskanen &Thrusfield (1998) trên 953 chó mắc viêm tử cung đã báo cáo rằng chó cái chưa đẻ (925/9865 chó) có nguy cơ mắc viêm tử cung cao hơn những chó cái đã đẻ một lứa hoặc nhiều lứa (10/635 chó) (tỷ số OR khoảng 6,63). Kết quả này cho thấy nguy cơ gia tăng viêm tử cung ở những chó chưa sinh sản, gồm cả những chó đã bỏ qua nhiều lứa đầu tiên không cho sinh sản sau mới cho sinh sản lại.

Theo Smith (2006), trước đây thường định nghĩa viêm tử cung xảy ra chỉ khi tử cung bị nhiễm trùng. Nhưng thời gian gần đây, đã phát hiện ra nguyên nhân nguyên phát là do sự bất thường về hormone trên những chó không sinh sản hoặc sinh sản không đều đặn, còn nhiễm trùng chỉ là thứ phát.Viêm tử cung điển hình phát triển sau khi động dục, trong giai đoạn thể vàng, 20-70 ngày sau khi kết thúc động dục (Bigliardi & Pamigiani, 2004), và được mô tả là xảy ra ở 93% ca bệnh trong vòng 12 tuần sau khi động dục. Những thay đổi trong nội mạc tử cung thứ phát sau khi tăng sinh tuyến tử cung và thoái hóa nang trứng dẫn đến viêm tử cung. Người ta cho rằng những thay đổi tăng sinh và bài tiết được đề cập do ảnh hưởng của phản ứng quá mức của nội mạc tử cung đối với oestrogen và

progesterone (hyperoestrogenisation). Ngoài ra, rối loạn chức năng của buồng trứng ở chó cái thường góp phần vào những thay đổi thoái hóa trong tử cung.

Thêm vào đó, vào giữa những năm 1980, một thực thể bệnh đã được mô tả, được gọi là phức hợp viêm nội mạc tử cung - viêm tử cung tích mủ, bao gồm ba dạng lâm sàng: (a) viêm tử cung tích mủ, (b) viêm nội mạc tử cung mãn tính và

(c) tăng sản nội mạc tử cung dạng nang (Zdunczyk & cs., 2006 ). Bệnh vẫn chưa được giải thích đầy đủ cho đến nay, nhưng người ta biết rằng rối loạn nội tiết và nhiễm trùng do vi khuẩn là nguyên nhân cơ bản của phức hợp này và các quá trình bệnh lý chính xảy ra trong tử cung. Các bất thường buồng trứng và rối loạn nội tiết do ảnh hưởng kéo dài của estrogen (động dục kéo dài, u nang buồng trứng) được cho là nguyên nhân chính của phức hợp viêm nội mạc tử cung - viêm tử cung tích mủ (Kida & cs., 2006). Những hormone này thúc đẩy sự sản sinh quá mức của nội mạc tử cung và kéo dài thời gian mở cổ tử cung. Progesterone cũng góp phần vào sự phát triển của bệnh viêm tử cung, việc sử dụng progesterone để động dục và đồng bộ hóa rụng trứng ở chó cái cũng có thể là nguyên nhân gây bệnh. Tác động của progesterone lên tử cung chó bao gồm làm giảm phản ứng miễn dịch tại chỗ, thúc đẩy sự bài tiết trong các tuyến nội mạc tử cung, giảm tính linh hoạt và đóng cổ tử cung. Sự xâm nhập của vi khuẩn

E. coli vào trong tử cung, đi lên từ âm đạo trong giai đoạn thể vàng, gây ra tình trạng viêm bên trong cơ quan này. Người ta đã chứng minh rằng progesterone gây ra sự phát triển của các thụ thể nội mạc tử cung, cho phép sự bám dính của các khuẩn lạc E. coli. Ngoài ra, sử dụng quá muộn progestagens trong giai đoạn trước động dục để gây động dục ảnh hưởng đến các quá trình viêm trong tử cung chó, hơn 20% các trường hợp EPC là do sử dụng hormone.

Một thực tế cho thấy, nhiều chủ chó không muốn cho chó sinh sản, nhưng cứ 4-6 tháng chó lại xuất hiện chu kỳ động dục, khi đó máu cùng niêm dịch từ cơ quan sinh dục thường chảy ra ngoài, chủ chó thường gọi bác sỹ thú y đến để tiêm thuốc ức chế động dục. Các bác sỹ thú y thường sử dụng loại thuốc ngừa thai của người là Depo-provera với thành phần là Medroxyprogessterone acetate để ức chế động dục ở chó. Khi sử dụng thuốc này làm cho hàm lượng progesterone tăng cao, trong khi đó lớp nội mạc tử cung rất nhạy cảm với progesterone sẽ hình thành các nang dẫn đến tăng tiết dịch, nhất là ở thời điểm sau động dục, làm cho tế bào dễ bị cảm nhiễm, từ đó nguy cơ bệnh viêm tử cung tăng cao. Điều này giải thích tại sao những chó không sinh sản hoặc sinh sản không đều đặn thường bị

mắc viêm tử cung cao hơn những chó sinh sản bình thường (Sử Thanh Long & Trần Lê Thu Hằng, 2015).

Việc tăng nguy cơ mắc viêm tử cung ở những chó chưa đẻ lứa nào so với những chó đã đẻ một hoặc nhiều lứa cũng được trình bày trong một số nghiên cứu như Sử Thanh Long & Trần Lê Thu Hằng (2015) đã cho thấy mối quan hệ nhất định giữa việc chưa đẻ lần nào và viêm tử cung ở chó cái.

Theo Baithalu & cs. (2010), các nghiên cứu trước đây cho rằng chó cái chưa sinh sản, chó cái bất thường về chu kỳ động dục và mang thai giả làm tăng nguy cơ mắc viêm tử cung, nhưng nhiều nghiên cứu gần đây khuyến nghị rằng không có mối liên quan giữa chu kỳ động dục bất thường và mang thai giả và viêm tử cung. Tuy nhiên, có mối quan hệ nhất định giữa chó chưa đẻ lần nào và bệnh viêm tử cung. Các yếu tố nguy cơ đối với viêm tử cung bao gồm việc chó chưa sinh sản lứa nào và liệu pháp nội tiết (estrogen và progesterone) (Whitehead, 2008; Niskanen & Thrusfield, 1998) trong khi mang thai giả đã được được đề xuất như một yếu tố an toàn. Ảnh hưởng của một số yếu tố nguy cơ chẳng hạn như việc chó chưa sinh sản có thể khác nhau giữa các giống chó (Hagman & cs., 2011; Jitpean, 2015). Như vậy, cần xem xét những trường hợp chó đã quá tuổi sinh sản, đã qua nhiều lần động dục nhưng chưa được phối giống, mang thai và số lần đẻ, ngoài ra bác sỹ cũng cần tư vấn cho chủ nuôi khi không muốn chó sinh sản cần tiến hành triệt sản sớm để phòng ngừa nguy cơ viêm tử cung trên chó.

4.1.5. Thực trạng chó đến khám bị viêm tử cung theo lứa tuổi

Để tìm hiểu mối liên hệ giữa tuổi và bệnh viêm tử cung, chúng tôi sắp xếp những chó bệnh vào trong 3 nhóm tuổi, số liệu cụ thể được trình bày ở bảng 4.5.

Từ kết quả của bảng 4.5 cho thấy, tỷ lệ mắc bệnh viêm tử cung tăng dần theo lứa tuổi của chó, cao nhất gặp ở chó từ 5 năm tuổi trở lên với 49,26% thấp nhất ở chó từ 1-2 năm tuổi với 25,45%. Nguyên nhân do những chó lớn tuổi không cho sinh sản mà không được cắt bỏ tử cung và buồng trứng, lúc này progesterone vẫn được buồng trứng tiết ra, lớp nội mạc tử cung của chó rất nhạy cảm với progesterone nên sẽ hình thành những nang, những nang này tiết nhiều dịch và lưu lại bên trong tử cung làm gia tăng kích thước của tử cung. Khi bệnh tiến triển, dịch tràn ra ngoài âm đạo, lúc này vi khuẩn có sẵn ở âm đạo đi vào bên

trong qua cổ tử cung và gây nhiễm trùng. Cơ thể đáp ứng lại với sự nhiễm trùng bằng cách huy động nhiều tế bào bạch cầu đến tử cung, mặt khác tử cung vẫn gia tăng sự tiết dịch, từ đó càng làm cho tử cung căng lớn ra.

Bảng 4.5. Thực trạng chó đến khám bị viêm tử cung theo lứa tuổi


Tuổi (năm)

Số chó bị bệnh (con)

Tỷ lệ (%)

Dưới 2

21

25,45a

Từ 2 - 5

48

35,29b

Trên 5

67

49,26c

Tổng cộng

136

100

Chú thích: Các chữ cái trên cùng một cột khác nhau là tỷ lệ viêm tử cung khác nhau có ý nghĩa (P<0.05)

Cho đến nay, đã có nhiều nghiên cứu thực hiện đánh giá tỷ lệ mắc bệnh ở các độ tuổi của chó nhưng cho kết quả khác nhau.

Trong nghiên cứu của Fakuda (2001), lứa tuổi trung bình mắc bệnh viêm tử cung của giống chó Beagle là 9,36 0,38, tất cả các chó mắc bệnh đều lớn hơn 4 tuổi. Chó cái bị viêm tử cung có thể do quá trình phối giống, do chó đực bị bệnh về đường sinh dục nên gây viêm nhiễm cho chó cái trong quá trình giao phối, hoặc do kĩ thuật thụ tinh nhân tạo còn kém, gây sây sát niêm mạc đường sinh dục cũng như vệ sinh bẩn đã làm cho vi khuẩn phát triển gây bệnh.

Theo Baithalu & cs. (2010) cũng báo cáo bệnh viêm tử cung thường xảy ra ở nhiều lứa tuổi sau lần động dục đầu tiên, thông thường là tình trạng từ chó trung tuổi đến chó già, độ tuổi trung bình báo cáo 7,25 năm tuổi trong khoảng từ 4 tháng tuổi đến 16 năm tuổi. Nghiên cứu Antonov & cs. (2015) cho thấy tuổi trung bình chó cái mắc viêm tử cung dao động tử 1 đến 17 năm tuổi (trung bình 7,55±3,45 năm tuổi), trong đó chó cái 7 năm tuổi chiếm đến 11,98% trong tất cả các trường hợp. Thời gian khởi phát của bệnh viêm tử cung thường xuyên nhất là 4 tuần sau lần động dục gần nhất (33,18% trong tất cả các trường hợp). Tuy nhiên, độ tuổi có nguy cơ phát triển viêm tử cung là khác nhau giữa các giống. Các giống chó nhỏ như Bolognese, Miniature Pinscher (Fox Min Pin), Pekingese (chó Bắc Kinh) thường phát triển bệnh viêm tử cung muộn trong thời gian sống (12,57 ± 2,44, 8,44 ± 4,12 và 8,22 ± 3,80 năm) so với những giống chó lớn như

Caucasian Shepherd và Bulgarian Shepherd (6,00 ± 3,24 và 6,25 ± 1,67 năm). Trong khi đó, chó Siberian Husky bị viêm tử cung phát triển trong khoảng 5,67 ± 3,98 năm tuổi. Việc sử dụng hormone điều trị bao gồm sử dụng progestins để ức chế động dục hoặc estrogens để gây động dục hoặc loại bỏ thai có thể giải thích cho sự phát triển bệnh viêm tử cung ở những chó ít tuổi.

Thêm vào đó, nhiều trường hợp chó mắc mắc bệnh phức hợp tăng sản nội mạc tử cung dạng nang (CEH/P), trước đó được gọi là phức hợp viêm nội mạc tử cung-viêm tử cung tích mủ (EPC), là một trong những bệnh tử cung nghiêm trọng nhất và phổ biến nhất ở chó cái (Kida & cs., 2006). Người ta ước tính rằng phức hợp CEH/P là rối loạn sinh sản phổ biến nhất ở chó và có thể ảnh hưởng đến 25% tổng số chó cái trước 10 tuổi (Egenvall & cs., 2001). Tuổi trung bình của một chó cái với phức hợp CEH/P thay đổi từ 6 đến 10 năm tuổi (Niskanen & Thrusfield, 1998) và 5,5 năm ở những chó cái được điều trị bằng oestrogen.

Nghiên cứu Hagman (2004) đã báo cáo khi tuổi sinh học được thêm vào, hầu hết các rủi ro riêng dành cho các giống chó đều giảm ngoại trừ giống Golden và Retriever lại tăng lên. Giống chó này rõ ràng có nguy cơ phát triển bệnh viêm tử cung cao hơn và ảnh hưởng thậm chí còn rõ ràng hơn khi được điều chỉnh theo tuổi sinh học vì rất ít chó Golden và Retrievers chết sớm. Khi điều chỉnh tuổi sinh học của hai giống chó German Shepherd và Drever phân tích trong mô hình đa biến cho thấy nguy cơ phát triển bệnh viêm tử cung thấp hơn so với dữ liệu cơ sở. Rủi ro thấp có thể phản ánh thực tế nhiều chó thuộc các giống này chết sớm hơn (ví dụ: Drevers là chó săn thường chết vì chấn thương). Kết quả có thể khác nhau và những giống này được đưa vào dữ liệu cơ sở nếu biến tuổi sinh học chỉ bao gồm chết do bệnh (trái ngược với chết do chấn thương hoặc bệnh). Các tương tác với tuổi sinh học có thể được hiểu như ở một số giống (Rottweiler, Collie lông xù, Golden Retriever và Cavalier King Charles Spaniel), nguy cơ mắc bệnh viêm tử cung thực sự tăng nhiều hơn và ở độ tuổi sớm hơn so với các giống khác, những giống này có thể mang gen di truyền mắc viêm tử cung cao hơn các giống khác. Nhìn chung, sự khác biệt về giống có thể phản ánh sự khác biệt di truyền thực sự hoặc chỉ đơn thuần là sự phản ánh tuổi thọ trung bình kéo dài khác nhau ở các giống khác nhau. Một số chủ nuôi có thể mong muốn triệt sản chó cái ở tuổi sớm hơn để ngăn ngừa sự phát triển viêm

tử cung. Với độ tuổi khác nhau thì nguy cơ khác nhau, tuổi tối đa hoặc tối ưu để lựa chọn triệt sản khác nhau giữa các giống chó. Có vẻ như khuynh hướng mắc bệnh viêm tử cung là giống nhau giữa các quốc gia, nhưng việc tạo thói quen triệt sản ở độ tuổi sớm hơn để phòng bệnh viêm tử cung làm giảm tỷ lệ tần số mắc bệnh thực tế khác nhau. Sự phát triển của bệnh viêm tử cung phụ thuộc vào một số yếu tố, trong đó giống là một trong những yếu tố quan trọng nhất để dự đoán nguy cơ phát triển bệnh. Bệnh có nguy cơ phát triển cao ở một số giống chó lớn hoặc giống chó kích thước rất lớn và cũng tăng theo tuổi tác (Jitpean, 2015). Do vậy, khi thực hiện phẫu thuật triệt sản hay lựa chọn phương pháp điều trị cần xem xét các yếu tố giống và tuổi chó để đưa ra phương án hiệu quả. Nói chung, sự khác biệt về giống có thể phản ánh sự khác biệt về gen thực sự hoặc chỉ đơn thuần là sự phản ánh của vòng đời khác nhau ở các giống khác nhau. Nếu tồn tại sự khác biệt di truyền thực sự trong dự đoán, thì khả năng thành lập các chương trình nhân giống để kiểm soát bệnh có thể được xem xét.

4.1.6. Tần suất xuất hiện triệu chứng biếng ăn ở chó bị viêm tử cung

Viêm tử cung là một căn bệnh có khả năng đe dọa tính mạng của chó ảnh hưởng đến khoảng 25% ở giai đoạn trước 10 tuổi (Egenvall & cs., 2001) với các biến chứng nghiêm trọng bao gồm nhiễm trùng huyết, sốc nhiễm trùng, viêm phúc mạc và rối loạn chức năng đa cơ quan (Fransson & cs., 2004; Jitpean & cs., 2014a). Do đó, việc xác định bệnh sớm là rất quan trọng để điều trị giúp tăng cơ hội sống sót.

Phương pháp chẩn đoán bệnh trước tiên căn cứ vào các biểu hiện lâm sàng, tuy nhiên bệnh viêm tử cung ở giai đoạn đầu thường khó phát hiện bởi các triệu chứng thường không rõ ràng hoặc không đầy đủ. Vì vậy, nội dung này được thực hiện nhằm xác định các dấu hiệu lâm sàng của chó mắc bệnh viêm tử cung để làm cơ sở ban đầu cho chẩn đoán bệnh sớm. Kết quả tần suất xuất hiện triệu chứng lâm sàng biếng ăn được thể hiện ở bảng 4.6.

Trong tổng số 136 chó được mang đến khám và có thông tin rõ ràng về chỉ tiêu thu nhận thức ăn trên chó bị mắc bệnh viêm tử cung (Bảng 4.6) cho thấy, triệu chứng biếng ăn không xuất hiện thường xuyên trên chó mắc bệnh viêm tử cung (38,24%) và tỷ lệ mắc bệnh ở dạng mở cao hơn so với dạng đóng (57,35% so với 42,65%).

Bảng 4.6. Tần suất xuất hiện triệu chứng biếng ăn ở chó biểu hiện viêm tử cung



Triệu chứng


Tỷ lệ (%)

Viêm tử cung dạng đóng

Viêm tử cung dạng mở


Tổng


Không biếng ăn

Tần suất

44

40

84

Tỷ lệ (%) giữa các dạng viêm tử cung

52,38a

47,62a


61,76I

Tỷ lệ (%) trong dạng viêm tử cung

75,86I

51,28I

Tỷ lệ (%) so với toàn bộ

32,35A

29,41A


Biếng ăn

Tần suất

14

38

52

Tỷ lệ (%) giữa các dạng viêm tử cung

26,92a

73,08b


38,24II

Tỷ lệ (%) trong dạng viêm tử cung

24,14II

48,72I

Tỷ lệ (%) so với toàn bộ

10,29B

27,94A

Tổng trong dạng viêm

Tần suất

58

78

136

Tỷ lệ (%)

42,65a

57,35b

100

Chú thích: Trong cùng một hàng của tỷ lệ các dạng viêm tử cung theo triệu chứng biếng ăn hoặc không biếng ăn, nếu các giá trị có ký hiệu chữ in thường nhỏ phía trên bên phải khác nhau thì khác nhau có ý nghĩa thống kê (P<0,05). Trong cùng một cột tỷ lệ của cùng dạng viêm tử cung giữa triệu chứng biếng ăn so với với không biếng ăn, nếu các giá trị có ký hiệu chữ số la mã nhỏ phía trên bên phải khác nhau thì khác nhau có ý nghĩa thống kê (P<0,05). Trong cùng bảng về tỷ lệ từng dạng viêm tử cung theo từng triệu chứng so với tổng thể, nếu các giá trị có ký hiệu chữ in hoa phía trên bên phải khác nhau thì khác nhau có ý nghĩa thống kê (P<0,05).

Khi đánh giá tỷ lệ mắc từng dạng bệnh viêm tử cung trong cùng triệu chứng, chó có biểu hiện biếng ăn thường mắc viêm tử cung dạng mở (73,08%). Trong khi chó mắc bệnh nhưng không có triệu chứng biếng ăn thì tỷ lệ mắc bệnh dạng mở và dạng đóng không có sự khác biệt (47,62% và 52,38%).

Đánh giá theo từng dạng bệnh viêm tử cung, ở những ca bệnh dạng đóng phần lớn không xuất hiện triệu chứng biếng ăn (75,86%) trong khi dạng mở

không có sự khác biệt về mặt thống kê giữa chó mắc viêm tử cung có hoặc không biếng ăn (48,72% và 51,28%).

Biếng ăn là một trong những triệu chứng lâm sàng toàn thân cổ điển của bệnh viêm tử cung ở chó. Rối loạn tiêu hóa là một trong những tác động gây ra của bệnh viêm tử cung trên chó cái, cụ thể các biểu hiện như biếng ăn, nôn mửa, tiêu chảy... Kết quả của nghiên cứu này tương tự với một số báo cáo trước đây khi đánh giá về triệu chứng lâm sàng chó mắc viêm tử cung cho thấy, tỷ lệ ca bệnh xuất hiện triệu chứng biếng ăn dao động trong khoảng 42 - 87% (Jitpean & cs., 2017). Theo nghiên cứu Lika & cs. (2011) khi đánh giá về các đặc điểm lâm sàng trên các nhóm chó mắc viêm tử cung dạng đóng và viêm tử cung dạng mở, tỷ lệ ca bệnh xuất hiện triệu chứng biếng ăn ở nhóm viêm tử cung dạng mở là 73,3% (11/15 chó) và ở nhóm viêm tử cung dạng đóng là 30% (6/20 ca bệnh). Tương tự nghiên cứu Jitpean & cs. (2014b) khi tiến hành đánh giá trên 356 ca bệnh mắc viêm tử cung cho thấy tỷ lệ xuất hiện triệu chứng biếng ăn chiếm 69% (193/280 chó). Ngoài ra, tác giả Jitpean & cs. (2014b) cũng tiến hành phân tích mối liên quan giữa các dấu hiệu lâm sàng, kết quả khám sức khỏe và kết quả xét nghiệm phòng thí nghiệm và nguy cơ nhập viện kéo dài sau phẫu thuật (≥ 3 ngày) ở chó cái mắc bệnh viêm tử cung, kết quả không cho thấy sự khác nhau có ý nghĩa thống kê giữa nhóm xuất hiện biểu hiện biếng ăn (20%, 34/167 chó) và nhóm không xuất hiện triệu chứng biếng ăn (11%, 9/79 chó). Tuy nhiên, khi đánh giá mối liên quan giữa các dấu hiệu lâm sàng, kết quả khám sức khỏe và kết quả xét nghiệm ở phòng thí nghiệm và sự hiện diện của viêm phúc mạc ở chó cái mắc bệnh viêm tử cung đã cho thấy nhóm chó xuất hiện triệu chứng biếng ăn có tỷ lệ mắc viêm phúc mạc là 13% (22/166 chó) cao hơn so với nhóm chó không xuất hiện triệu chứng biếng ăn 5% (4/79 chó).

Theo Jitpean & cs. (2017) nghiên cứu trong thời gian không liên tục trong giai đoạn 2005-2012, khi đánh giá trên 111 chó cái mắc viêm tử cung bao gồm 72 chó (65%) mắc viêm tử cung dạng mở, và 39 chó (35%) mắc viêm tử cung dạng đóng. Kết quả cho thấy tình trạng chung các ca bệnh từ mức trung bình đến mức suy yếu thường phổ biến ở những chó mắc viêm tử cung dạng đóng so với viêm tử cung dạng mở. Nhiễm trùng huyết thường phổ biến với những chó mắc viêm tử cung dạng đóng so với viêm tử cung dạng mở, kết quả này cho thấy chó mắc viêm tử cung không xuất hiện dịch âm đạo có mức độ bệnh nặng hơn so với

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 23/02/2023