Biểu Hiện Lâm Sàng Và Chẩn Đoán Theo Yhct:



Xuyên sơn giáp

Thông kinh lạc, trừ phong, hoạt huyết, tiêu thũng


Cam thảo

Điều hòa các vị thuốc

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 352 trang tài liệu này.

Bệnh học - Trường Tây Sài Gòn - 37

- Đường gân bị sái đau nhức liên tục, dùng “Tiểu hoạt lạc đơn” (Cục phương): Bảo xuyên ô, Bảo thảo ô, Đởm tinh, lượng bằng nhau; Địa long sấy, Chích nhũ hương, Chích một dược, lượng bằng nhau và bằng nửa các vị trên. Nghiền bộ làm hoàn, mỗi hoàn 10g, ngày uống 3 lần mỗi lần 1 hoàn.

- Cân cơ chỗ trật khớp sưng đau nhiều thì uống “Tráng cân dưỡng huyết thang” hoặc “Bổ cân thang”.

Tráng cân dưỡng huyết thang (Thương khoa bổ yếu): Thục địa, Xuyên khung, Đương quy, Bạch thược, Hồng hoa, Xuyên tục đoạn, Đỗ trọng, Ngưu tất, Đơn bì).

Bổ cân thang (Thương khoa bổ yếu): Đương quy 12g, Thục địa 12g, Bạch thược 8g, Hồng hoa 4g, Phục linh 12g, Trần bì 6g, Cốt toái bổ 12g, Đinh hương 4g, Nhũ hương 4g, Một dược 4g.

Phân tích bài thuốc


Vị thuốc

Tác dụng

Đương quy

Bổ huyết, hoạt huyết

Thục địa

Bổ than, bổ huyết, dưỡng âm

Bạch thược

Dưỡng huyết, liễm âm, hòa can chỉ thống

Hồng hoa

Hoạt huyết khử ứ, thông kinh

Phục linh

Lợi thủy, thẩm thấp, bổ tỳ định tâm

Cốt toái bổ

Bổ thận, làm mạnh gân xương, hoạt huyết ứ, cầm

máu giảm đau

Đinh hương

Ôn tỳ vị, chỉ thống

Nhũ hương

Giảm đau do ngã trật đả, chấn thương, tán huyết

bài nùng, thông khí hóa trệ

Một dược

Hoạt huyết tiêu ứ, tiêu ung, bài nùng, chỉ thống,

tiêu thũng, sinh cơ, hành khí

- Nếu có khí hư thì dùng bài “Bát trân thang” (Cục phương): Đảng sâm 12g, Bạch linh 12g, chích Cam thảo 8g, Thục địa 12g, Xuyên khung 12g, Đương quy 12g, Bạch thược 12g.


RỐI LOẠN KINH NGUYỆT


MỤC TIÊU

Sau khi học xong bài này, sinh viên có khả năng:


1. Nêu được quan niệm về kinh nguyệt và rối loạn kinh nguyệt theo YHHĐ và YHCT.

2. Nêu được nguyên nhân – bệnh sinh rối loạn kinh nguyệt theo YHHĐ và YHCT

3. Chẩn đoán được các rối loạn kinh nguyệt theo YHHĐ và YHCT

4. Trình bày được điều trị rối loạn kinh nguyệt theo YHCT

5. Giải thích được cơ sở lý luận của việc điều trị rối loạn kinh nguyệt bằng YHCT.


NỘI DUNG


1. ĐẠI CƯƠNG

1.1. Sinh lý kinh nguyệt:


Kinh nguyệt là hiện tượng chảy máu ra ngoài âm đạo có chu kỳ do sự tróc lớp niêm mạc của tử cung khi không có sự thụ thai. Là hiện tượng biểu hiện hoạt động của buồng trứng và tử cung. Thời gian của mỗi chu kỳ được tính từ khi bắt đầu chu kỳ kinh này đến khi bắt đầu chu kỳ kinh sau.

Ở phụ nữ bình thường, tuổi bắt đầu có kinh là khoảng 12-16 tuổi. Chu kỳ kinh trung bình là 28 ngày, có thể thay đổi từ 21-35 ngày. Mỗi kì kinh ra máu thường kéo dài 3-4 ngày. Lượng máu mất trung bình cho mỗi kỳ kinh là 40-100ml.

Một chu kỳ kinh nguyệt bình thường có phóng noãn chia làm 2 giai đoạn:


- Giai đoạn chịu ảnh hưởng của nội tiết tố estrogen (từ ngày 1 đến ngày 14 của chu kỳ 28 ngày).

- Giai đoạn chịu ảnh hưởng của chất progesterone kết hợp với estrogen (từ ngày 14 đến ngày thứ thứ 28 của chu kỳ 28 ngày).

1.2. Rối loạn kinh nguyệt:


Rối loạn kinh nguyệt là những triệu chứng biểu hiện của nhiều loại bệnh, là cụm từ để chỉ những bất thường của kinh nguyệt về chu kỳ kinh, thời gian hành kinh, lượng máu kinh…cùng với những triệu chứng khác kèm theo. Cụ thể là:

- Sự thay đổi về chu kỳ hành kinh:

Trước kỳ: sớm hơn 7 ngày

Sau kỳ: chậm hơn 7 ngày.

- Thay dổi về tính chất:

Số lượng máu ra nhiều hơn bình thường được gọi là cườn g kinh và nếu ít hơn bình thường thì gọi là thiểu kinh.

Số ngày kinh kéo dài trên 7 ngày thì gọi là rong kinh

Màu sắc máu kinh: tím, đỏ, nhạt.

Tính chất máu kinh: đặc, loãng hoặc thành cục.

- Thay đổi về chu kỳ kinh: Chu kỳ kinh kéo dài trên 40 ngày thì gọi là kinh thưa, chu kỳ ngắn hơn 21 ngày thì gọi là kinh dày hay đa kinh.

- Rong huyết là sự ra huyết âm đạo bất thường với lượng không nhiều và không liên quan đến chu kỳ kinh.

- Vô kinh là tình trạng không có kinh. Không có kinh từ nhỏ đến lớn thì gọi là vô kinh nguyên phát, nếu đã có kinh một thời gian rồi ngưng mà không phải doi mang thai thì gọi là vô kinh thứ phát. Ngoài ra còn có tình trạng vô kinh sinh lý (có thai, mãn kinh).

- Các rối loạn kinh nguyệt bao gồm: vòng kinh không phóng noãn, có kinh sớm, có kinh muộn, đa kinh, cường kinh, thiểu kinh, rong kinh, rong huyết).

1.3. Quan niệm của YHCT:


Rối loạn kinh nguyệt được gọi là bệnh nguyệt kinh. Gồm các chứng Thống kinh, Bế kinh, Băng lậu, Kinh trở, Kinh trễ, Kinh loạn…

Đối với người phụ nữ thì bào cung là khí quan riêng biệt, chuyên chủ việc kinh nguyệt và hệ bào, nơi phát nguồn của mạch Xung, mạch Nhâm. Mạch Xung là bể của huyết, mạch Nhâm là chủ về bào thai. Đến trên dưới 49 tuổi thì khí huyết mạch Xung mạch Nhâm suy yếu dần, thiên quý kiệt, rồi kinh nguyệt dừng hẳn.

Kinh nguyệt thường dễ bị ảnh hưởng bởi:


- Những kích động về tinh thần (Nội nhân)

- Ngoại cảm lục dâm

- Hoặc do ăn uống, hay do bệnh tật nội thương

Các nguyên nhân trên làm cho khí huyết của mạch Xung, Nhâm và Bào cung mất điều hòa, mà gây nên những rối loạn chu kỳ kinh nguyệt. Mặt khsac, khi nội tạng bệnh đặc biệt là tạng Can, Tỳ, Than cũng ảnh hưởng rất lớn đến nguyệt kinh, bởi vì Tâm chủ huyết, Tỳ thống và sinh huyết, Can tàng huyết, mạch của Can liên lạc với âm khí, quản lý phần bụng dưới, tạng Than khai khiếu ở tiền âm, hậu âm lại là chủ thể của cơ quan sinh dục, cho nên, khi các chức năng của các tạng trên rối loạn đều có thể tác động đến chu kỳ kinh nguyệt của phụ nữ.

2. BIỂU HIỆN LÂM SÀNG VÀ CHẨN ĐOÁN

2.1. Theo YHHĐ:

2.1.1. Vòng kinh không phóng noãn:

Chu kì kinh không đều và không biết trước về lượng máu, về thời gian kéo dài của chảy máu, được gọi là chảy máu doi tử cung rối loạn cơ năng, đặc biệt là không kèm theo cơn đau bụng.

Chảy máu tử cung do rối loạn cơ năng thường là hậu quả của trường hợp nang noãn không chín, kèm theo không phóng noãn, xẩy ra bất chợt hoặc mãn tính. Tình trạng này thường xảy ra 12 đến 18 tháng đầu sau khi có kinh lần đầu hoặc xung quanh thời kỳ mãn kinh hoặc thứ phát của những kích động khác nhau hay bệnh tật xen kẽ. Trong những chu kì kinh này, không có hoàng thể, do đó không có tác dụng của progesterone trên tử cung, chỉ có tác dụng của estrogen làm nội mạc tử cung bị tăng sinh cũng đầy đủ để bong ra và gây ra kinh.

Chảy máu tử cung do rối loạn cơ năng trong tuổi sinh sản có thể do nhiều bệnh thực thể tác động lên chức năng của buồng trứng hay gặp nhất là do tụt estrogen giữa kỳ. Khi nội mạc tử cung chịu tác dụng kích thích của lượng estrogen kéo dài mà không được làm gián đoạn do tụt

progesterone một cách có chu kỳ (không có thời kỳ hoàng thể) và khi mức estrogen tụt xuống thì nội mạc chảy máu.

Những vòng kinh không phóng noãn không có chức năng thụ thai, những phụ nữ thuộc nhóm này thường đến khám vì vô sinh chứ không phải vì rối loạn kinh nguyệt có biểu hiện lâm sàng cụ thể.

Để phát hiện những vòng kinh không phóng noãn cần dựa vào các xét nghiệm, đặc biệt là hình ảnh giải phẫu sinh lý qua nạo sinh thiết nội mạc tử cung. Trên lâm sàng có thể áp dụng phương pháp đo thân nhiệt mỗi buổi sáng trong suốt chu kỳ kinh.

2.1.2. Vô kinh:

Là sự không xuất hiện trạng thái bắt đầu hành kinh, khởi phát kỳ kinh nguyệt. Vô kinh có 2 loại: Vô kinh nguyên phát và vô kinh thứ phát.

2.1.2.1. Vô kinh nguyên phát:

- Là tình trạng người phụ nữ chưa hành kinh lần nào. Phần lớn nguyên nhân do khuyết tật của đường dẫn máu.

- Dậy thì muộn do thể chất hoặc do những bất thường nội tiết

- Có bất thường về cấu trúc di truyền (không có tử cung, không có âm đạo, teo buồng trứng bẩm sinh)

- Kinh ẩn (dòng máu kinh bị tắc do vách ngăn ngang âm đạo hoặc màng trinh không thủng).

- Bệnh chán ăn tâm thần xuất hiện sớm.

2.1.2.2. Vô kinh thứ phát:

Là tình trạng không thấy kinh nguyệt ít nhất 3 tháng ở người phụ nữ trước đó vẫn hành kinh bình thường và không mang thai.

Nguyên nhân: có thể do dính buồng tử cung (sau nạo thai, lao dinh dục), suy sớm buồng trứng, mãn kinh sớm, khối u buồng trứng, rối loạn hoạt động nội tiết của tuyến vỏ thượng thận, tuyến giáp, bệnh lý tuyến yên.

2.1.3. Rong kinh – rong huyết:

- Rong kinh: Là hiện tượng có kinh đúng chu kỳ nhưng kinh kéo dài trên 7 ngày, lượng huyết có thể nhiều, trung bình hoặc có thể ít. Nếu lượng máu kinh ra nhiều hơn bình thường thì gọi là cường kinh, nguyên nhân thường là do cường estrogen, cũng có thể do rối loạn đông cầm máu. Rong kinh do thiếu estrogen: vòng kinh bình thường nhưng lượng máu ra ít hơn bình thường và thời gian hành kinh kéo dài. Loại rong kinh này thường kèm theo triệu chứng kinh ít và kinh thưa. Chẩn đoán thăm do bằng tế bào âm đạo nội tiết hoặc định lượn estrogen để điều trị.

- Rong huyết: Là hiện tượng huyết không có tính chất chu kỳ, kéo dài cũng trên 7 ngày, không phóng noãn, nhiều khi lầm với kinh nguyệt không đều. Ở phụ nữ mang thai, rong huyết có thể là triệu chứng của dọa sảy thai, thai trứng, thai ngoài tử cung, nhau tiền đạo… Ở phụ nữ không mang thai, rong huyết cú thể là u xơ tử cung, polyp cổ tử cung, viêm loét âm đạo và cổ tử cung, lao sinh dục, bệnh lý ác tính đường sinh dục, rối loạn đông máu… Chẩn đoán: Cần xác định

được chảy máu từ niêm mạc tử cung ra âm đạo. Thăm khám thực thể để loại trừ các nguồn chảy máu từ trực tràng, bàng quang, cổ tử cung âm đạo và loại trừ những rối loạn liên quan đến thai nghén.

Các xét nghiệm cần thiết để tìm nguyên nhân:


- Sinh thiết nội mạc tử cung

- Nạo tử cung quy ước

- Xét nghiệm tế bào.

2.1.3.1. Rong kinh do chảy máu trước kinh:


Trước khi hành kinh chính thức, người phụ nữ có ra máu một số ngày, lượng huyết ít hơn, khiến kỳ kinh dài da, như vậy vòng kinh như ngắn lại.

Nguyên nhân có thể do có tổn thương thực thể như viêm niêm mạc tử cung, polyp buồng tử cung, nhưng cũng có thể do giai đoạn hoàng thể teo sớm, progesteron giảm nhanh. Phát hiện bằng cách lấy thân nhiệt vào sáng sớm, thấy thân nhiệt giảm.

2.1.3.2. Rong kinh do chảy máu sau kinh:

Sau sạch kinh được 1-2 ngày, lại ra huyết lại một vài ngày, lượng ít.

Nguyên nhân thực thể có thể do viêm niêm mạc tử cung, có vùng bong chậm, hoặc có những vùng tái tạo chậm. Bong chậm là do hoàng thể thoái triển chậm nên estrogen và progesteron xuống chậm. Tái tạo chậm là do nang noãn chưa kịp chế tiết đủ estrogen. Phân biệt bằng cách lấy thân nhiệt lúc sáng sớm, nếu thấy đường cong thân nhiệt cao kéo dài là progesteron xuống chậm, nếu thấy trong lúc máu ra lại, nhiệt độ đã xuống thấp là do estrogen thiếu.

2.2. BIỂU HIỆN LÂM SÀNG VÀ CHẨN ĐOÁN THEO YHCT:

2.2.1. Kinh nguyệt trước kỳ:

Là tình trạng kinh đến sớm hơn ngày kinh bình thường, phần nhiều do huyết nhiệt hoặc do khí hư gây ra (còn gọi là Kinh tảo, Kinh thủy tiên kỳ). Bao gồm các bệnh chính:

2.2.1.1. Huyết nhiệt (Thực nhiệt):

- Kinh đến sớm, lượng ra nhiều, sắc đỏ tía, đặc, huyêt cục

- Sắc mặt đỏ, môi khô đỏ, tình chí dễ giận ,cáu gắt

- Đại tiện táo, tiểu đỏ, thích mát, sợ nóng

- Mạch hoạt sác.

2.2.1.2. Huyết ứ:

- Kinh đến sớm, lượng ít, không lợi. Sắc kinh bầm tím, huyết cục

- Bụng dưới trướng đầy đau

- Lưỡi nhạt xanh

- Mạch hư tế sác

2.2.1.3. Huyết uất:

- Kinh nguyệt đến sớm, lượng ít. Sắc đỏ, khi hành kinh không lợi

- Trước hành kinh sứng đau vú hoặc sốt, đổ mồ hôi trộm

- Sắc mặt xanh vàng, gò má hồng

- Tinh thần uất ức, hồ hộp chóng mặt, ngực phiền, đau sườn

- Chất lưỡi đỏ, rêu vàng mỏng

- Mạch tế sác.

2.2.1.4. Đàm nhiệt

- Kinh đến sớm, lượng nhiều. Sắc đỏ, kèm đới hạ màu vàng trắng lẫn lộn.

- Bụng chướng, ngực phiền, hoa mắt chóng mặt, uể oải

- Miệng nhớt hơi đăng, nôn ọe, nôn nhiều đàm trắng vàng

- Rêu lưỡi trắng nhờn, vàng

- Mạch hư hoạt và sác.

2.2.1.5. Khí hư:

- Kinh đến sớm, lượng nhiều, sắc nhạt loãng

- Sắc da trắng bóng, chất lưỡi hồng nhạt, rêu nhớt

- Tinh thần uể oải, đoản hơi, ngại nói, đau mỏi lưng

- Mạch hư nhược vô lực

2.2.1.6. Hư nhiệt

- Kinh đến sớm, lượng ít. Sắc đỏ, trong, không huyết ứ cục.

- Sắc da không nhuận, gò má đỏ. Lưỡi đỏ rêu vàng khô, môi lở

- Táo bón, tiểu vàng, hoa mắt, chóng mặt, tâm phiền

- Mạch tế sác.

2.2.2. Kinh nguyệt đến sau kỳ:

Kinh nguyệt đến chậm hơn sau 7 ngày. Phần nhiều do hư hàn, đàm thấp hoặc huyết nhiệt, huyết hư, huyết ứ (còn gọi là chứng kinh trễ, kinh trì, kinh hành hậu kỳ, kinh sụt).

2.2.2.1. Hư hàn:

- Kinh đến chậm, lượng ít. Sắc nhạt hoặc xám đen, loãng

- Sắc da xanh bạc hoặc úa vàng, môi nhạt, thích nóng, sợ lạnh

- Bụng đau liên miên, chườm nóng dễ chịu, chân tay lạnh, hồi hộp

- Chóng mặt, đoản hơi, tinh thần uể oải

- Mạch trầm trì, hoặc vi tế.

2.2.2.2. Huyết ứ:

- Kinh đến chậm, lượng ít. Sắc tím đen, huyết cục

- Sắc sa xạm, bụng đầy trướng, xoa nắn đau tăng, khi ra huyết được thì giảm đau bụng

- Đại tiện táo, tiểu ít đỏ xẻn

- Mạch trầm tế sác

2.2.2.3. Huyết hư:

- Kinh đến chậm, lượng kinh ít, sắc kinh nhạt, loãng

- Sắc da trắng, xanh bạc, da khô, nóng nhạt

- Đau lưng gối, táo bón, mệt mỏi, đoản hơi, ngại nói

- Chóng mặt, hoa mắt, ít ngủ,

- Lưỡi nhạt ít rêu

- Mạch tế sác hoặc hư tế

2.2.2.4. Đàm trở:

- Cơ thể to béo, âm khí nhiều, đàm ẩm trong người nhiều làm bế tắc kinh mạch dẫn đến kinh nguyệt đến muộn một vài tháng một lần kinh.

- Kinh đến chậm, lượng kinh nhiều hoặc ít

- Sắc kinh nhợt, dính đặc, đới hạ nhiều màu trắng

- Ngực bụng căng trướng, tức, hay nôn, buồn nôn, ăn kém miệng nhạt

- Rêu lưỡi trắng nhớt

- Mạch huyền hoạt.

2.2.2.5. Khí uất:

- Kinh ra ít, chu kỳ đến chậm, hành kinh không thông suốt

- Trước khi hành kinh, bụng dưới chướng đau

- Tinh thần không thoải mái, bực dọc, cáu gắt, ngực sườn đầy tức.

- Lưỡi trắng nhợt

- Mạch huyền sác.

2.2.3. Kinh nguyệt không định kỳ:

Kinh nguyệt lúc có sớm, lúc có muộn , không theo đúng chu kỳ.

Nguyên nhân do nội thương hoặc tình chí bất ổn lâu ngày gây rối loạn chức năng các tạng Tỳ, Can, Thận. Trong đó Can khí không đều là khí nghịch loạn lên là chính.

Các bệnh cảnh lâm sàng gồm:

2.2.3.1.Can khí uất kết:

- Kinh đến có lúc sớm, lúc muộn. Lượn gist, kinh đi không thông, sắc đỏ tía, huyết cục.

- Đau bụng trước hoặc đầu lúc hành kinh. Đau từ vùng bụng dưới lan ra ngực sườn. Khi hành kinh vú căng, ngực sườn tức, đau lưng.

- Đại tiện táo, tinh thần u uất căng thẳng

- Sắc mặt không tươi

- Lưỡi nhạt, rêu lưỡi mỏng

- Mạch huyền tế.

2.2.3.2. Tỳ khí hư:

- Kinh nguyệt không định kỳ, lượng ít. sắc da vàng xanh, da thịt phù thũng, mỏi mệt, chân tay lạnh, thích nằm, chóng mặt, hồi hộp, đoản hơi.

- Bụng chướng, miệng nhạt ăn không ngon, tiêu lỏng

- Lưỡi ướt, rêu lưỡi trắng mỏng nhớt.

- Mạch trì hư nhược.

2.2.3.3. Can Thận âm hư:

- Kinh không định kỳ, lượng ít, xuống nhiều về đêm. Sắc kinh nhợt trong loãng dẻo

- Sắc mặt xám đen, ù tai, chóng mặt, đau lưng mỏi gối, bụng dưới trệ

- Tiểu nhiều lần

- Mạch trầm nhược

2.2.3.4. Huyết ứ

- Trước hành kinh bụng dưới căng tức, đau nổi gò cứng kinh xuống không thông màu đen sẫm có huyết cục ra kinh thì giảm đau. Kinh có khi rỉ rả, có khi ngưng hẳn, bụn dưới khi đau khi bớt.

- Sắc da xanh tím, da khô táo, miệng khô, không khát nước ngực căng tức, táo bón, mặt lưỡi tím

- Mạch trầm sác

2.2.4. Kinh nguyệt nhiều:


Khi hành kinh lượng huyết tăng lên nhiều hơn bình thường, nhưng chu kỳ kinh nguyệt không thay đổi, hoặc số ngày kinh đến kéo dài làm lượng kinh tăng lên.

YHCT gọi nguyệt kinh quá đa hay rong kinh (hành kinh kéo dài trên 5 ngày), cường kinh (lượng huyết quá nhiều).

Nguyên nhân do mạch xung nhâm nhiễu loạn, huyết hải không cố nhiếp được nên huyết kinh chảy nhiều.

Các bệnh cảnh lâm sàng:

2.2.4.1. Huyết nhiệt:

- Kinh lượng nhiều, sắc màu hồng thẫm, đặc, mùi tanh hoặc có huyết cục tím

- Sắc mặt đỏ hồng, mắt có tia hồng, môi hồng khô, miệng đắng khô có nhựa, lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng nhớt, ngực bụng đầy tức, khó chịu, bứt rứt, cáu gắt, ngủ không yên, tiểu vàng đục, có hoàng bạch đới.

- Mạch hoạt sác.

2.2.4.2. Khí hư:

- Khí hư không nhiếp huyết mà sinh kinh nguyệt nhiều lượng kinh nhiều, sắc nhạt.

- Sắc mặt trắng bóng hoặc vàng úa, lưỡi hồng rêu mỏng láng, uể oải, hồi hộp, sợ sệt, đoản hơi.

Mạch hư yếu.

2.2.4.3. Đàm trở:

- Lượng kinh nhiều, sắc nhạt hơi dẻo, dính

- Cơ thể mập, bứt rứt trong ngực, bụng đầy trướng, ăn ít, đàm nhiều, ,đới hạ, miệng lạt.

- Mạch huyền hoạt.

2.2.5. Kinh nguyệt ít:

Xem tất cả 352 trang.

Ngày đăng: 13/03/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí