Tài Khoản Kế Toán Và Hệ Thống Tài Khoản Kế Toán Trong Doanh Nghiệp Sản Xuất - Kinh Doanh


những nội dung, phương pháp kế toán cụ thể để hướng dẫn thực hiện Luật Kế toán và CMKT để doanh nghiệp áp dụng thống nhất57. Một số nước như Việt Nam, Trung quốc, ..CĐKT doanh nghiệp do Bộ Tài chính nghiên cứu, xây dựng và ban hành. Ở các nước như Anh, Mỹ, Singapore,…không có CĐKT mà chỉ có các hướng dẫn thực hiện các CMKT.

(v) Các quy định của thị trường chứng khoán: Ở các nước theo hệ thống luật chung (Common Law), thị trường chứng khoán có ảnh hưởng khá rõ nét đến hệ thống kế toán doanh nghiệp. Các cơ quan quản lý thị trường chứng khoán cũng ban hành các quy định liên quan đến kế toán, chủ yếu là các quy định về BCTC và công khai tài chính đối với các tổ chức niêm yết.

Như vậy, để đảm bảo cho doanh nghiệp tuân thủ pháp luật và các quy định về kế toán, hệ thống TKKT doanh nghiệp phải được nghiên cứu, xây dựng để có thể phân loại, hệ thống hóa tất cả các nghiệp vụ kinh tế phát sinh nhằm cung cấp đầy đủ các thông tin cho doanh nghiệp và các tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của pháp luật và các quy định về kế toán. Khuôn khổ pháp luật và các quy định về kế toán của các nước có sự khác nhau về cơ quan ban hành, về phạm vi các vấn đề Nhà nước phải quy định thống nhất và cho phép doanh nghiệp chủ động, linh hoạt. Đây là thực tiễn quan trọng mà Việt Nam cần nghiên cứu xem xét để triển khai nghiên cứu hoàn thiện hệ thống TKKT áp dụng trong các doanh nghiệp SXKD.

2.2. Tài khoản kế toán và hệ thống tài khoản kế toán trong doanh nghiệp sản xuất - kinh doanh

2.2.1. Tài khoản kế toán

Kế toán hình thành và phát triển gắn liền với sự hình thành và phát triển của nền kinh tế sản xuất hàng hoá. Sự hình thành của kế toán là cần thiết khách quan của nền kinh tế sản xuất hàng hoá. Để thực hiện được chức năng và nhiệm vụ của mình, kế toán đã sử dụng một hệ thống các phương pháp khoa học nhằm thu nhận, xử lý và cung cấp các thông tin về tài sản và sự vận động của tài sản tại doanh nghiệp, qua đó kiểm tra giám sát toàn bộ tài sản và các hoạt động kinh tế tài chính tại doanh nghiệp. Một trong những phương pháp đó là phương pháp TKKT hay còn


gọi là phương pháp đối ứng tài khoản và hình thức biểu hiện cụ thể của phương pháp này là TKKT.

Kế toán Mỹ80 cho rằng, TKKT là phương tiện lưu trữ thông tin kế toán cho từng đối tượng kế toán riêng biệt, tổng hợp tình hình tăng giảm và số hiện có của từng khoản mục thuộc phương trình kế toán, trong đó các khoản mục tài sản, nợ phải trả, vốn chủ sở hữu được trình bày trên BCĐKT; các khoản mục doanh thu, chi phí được trình bày trên báo cáo thu nhập. Có thể nói, kế toán Mỹ đồng nhất tài khoản kế toán và sổ sách kế toán.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 228 trang tài liệu này.

Theo hệ thống kế toán Pháp61 thì TKKT là hình thức phân loại, để ghi chép các nghiệp vụ kinh tế phát sinh, theo bản chất của từng nghiệp vụ. Khái niệm này đã chỉ ra rằng, TKKT là phương tiện để khái quát tất cả các nghiệp vụ kinh tế phát sinh có ảnh hưởng đến từng đối tượng kế toán cụ thể phục vụ cho nhu cầu thông tin của các đối tượng quan tâm.

Theo hệ thống kế toán Việt Nam, đại diện là các nhà khoa học của các trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội49, Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh 48, Viện Đại học Mở Hà Nội 47, ... , TKKT là cách thức phân loại, hệ thống hoá các nghiệp vụ kinh tế phát sinh riêng biệt theo từng đối tượng của hạch toán kế toán nhằm phục vụ cho yêu cầu quản lý của các chủ thể quản lý khác nhau. Theo đó, TKKT khác với sổ kế toán; sổ kế toán là phương tiện để ghi chép các nghiệp vụ kinh tế phát sinh theo đúng phương pháp kế toán trên cơ sở số liệu của chứng từ gốc; còn TKKT là phương tiện để hệ thống hóa, khái quát tất cả các nghiệp vụ kinh tế phát sinh có ảnh hưởng đến từng đối tượng kế toán cụ thể, nhằm phân tích sự tăng, giảm của các đối tượng khác nhau, phục vụ cho người sử dụng thông tin kế toán.

Nghiên cứu hệ thống tài khoản kế toán áp dụng trong các doanh nghiệp sản xuất - kinh doanh ở Việt Nam - 6

Theo Luật Kế toán Việt nam (năm 2003): TKKT được dùng để phân loại và hệ thống hóa các nghiệp vụ kinh tế, tài chính theo nội dung kinh tế (Điều 23 Khoản 1).

Mặc dù cách nhìn về TKKT có thể khác nhau nhưng về thực chất, các quan điểm đều thống nhất cho rằng TKKT là hình thức biểu hiện của phương pháp kế


toán (phương pháp TKKT) và TKKT được sử dụng để phân loại, phản ánh một cách thường xuyên, liên tục, có hệ thống tình hình hiện có và sự vận động của từng đối tượng kế toán cụ thể.

Qua các phân tích nêu trên có thể khẳng định rằng: TKKT là phương pháp phân loại, hệ thống hóa để phản ánh các nghiệp vụ kinh tế phát sinh theo từng đối tượng hạch toán kế toán cụ thể.

Trên phương diện nguyên lý kế toán, việc xây dựng và ghi nhận các giao dịch vào TKKT dựa trên nguyên tắc về tính hai mặt của giao dịch. Mỗi sự kiện kinh tế đều có tính hai mặt và việc ghi nhận vào TKKT phải cho thấy hai mặt đối lập đó46. TKKT phản ánh đối tượng kế toán ở trạng thái tĩnh và sự vận động của từng đối tượng kế toán cụ thể trong mối quan hệ với các đối tượng kế toán có liên quan một cách có hệ thống, thường xuyên liên tục, toàn diện.

Đối tượng của hạch toán kế toán được phân loại theo nhiều mức độ khác nhau nên TKKT trong hệ thống TKKT cũng được phân chia theo nhiều cấp tương ứng như: TK cấp 1, TK cấp 2, TK cấp 3, …

Nếu căn cứ vào nội dung kinh tế của đối tượng kế toán phản ánh trên TKKT, hệ thống TKKT sẽ bao gồm các loại: (i) TK phản ánh tình trạng tài chính (gồm TK tài sản và TK nguồn vốn), (ii) TK phản ánh kết quả hoạt động (gồm TK phản ánh doanh thu, chi phí, kết quả kinh doanh). TK tài sản phản ánh các giao dịch tác động đến nguồn lực do doanh nghiệp kiểm soát và có thể thu được lợi ích kinh tế trong tương lai (tiền, vật tư, TSCĐ …). TK nguồn vốn phản ánh biến động của nguồn hình thành tài sản.

Căn cứ vào nội dung các nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh phản ánh trên các chứng từ, kế toán sẽ phân loại, hệ thống hóa để phản ánh vào các TKKT. Có hai phương pháp phản ánh nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh vào TKKT, đó là: phương pháp ghi đơn và phương pháp ghi kép.

Ghi đơn là phương pháp mà nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh chỉ được phản ánh vào một TK đơn lẻ, nghĩa là ghi vào một TK thì không ghi quan hệ đối ứng với TK khác49. Cùng với sự phát triển của sản xuất qua các thời kỳ, phương


pháp ghi đơn được sử dụng phổ biến vào thời kỳ nền kinh tế xã hội đang ở hình thái kinh tế xã hội chiếm hữu nô lệ, là thời kỳ mà các nghiệp vụ kinh tế phát sinh ít và đơn giản. Ngày nay, tại các doanh nghiệp, phương pháp ghi đơn chỉ được sử dụng để phản ánh các nghiệp vụ kinh tế phát sinh vào các TK ngoài BCĐKT các hoạt động kinh tế tài chính có liên quan tới tài sản của các đơn vị khác mà đơn vị có trách nhiệm quản lý và sử dụng.

Ghi kép là phương pháp mà trong đó nghiệp vụ kinh tế phát sinh được phản ánh vào các TKKT theo đúng nội dung kinh tế của nghiệp vụ và mối quan hệ giữa các đối tượng kế toán49. Vào thời kỳ kinh tế xã hội thời phong kiến, người ta đã nhìn nhận chính xác và đầy đủ của nguyên tắc đối ứng: Một nghiệp vụ kinh tế phát sinh liên quan đến hai đối tượng và một đối tượng luôn luôn vận động theo hai mặt tăng và giảm. Đây là cơ sở để hình thành nên kế toán kép và phương pháp ghi kép lên TKKT tiếp tục được cải tiến và sử dụng cho đến ngày nay.

Bất cứ nghiệp vụ kinh tế nào phát sinh và được ghi nhận trên chứng từ đều liên quan đến BCTC. Việc lập BCTC sau mỗi giao dịch phát sinh là không thể và không cần thiết. Thay vào đó, để có cơ sở lập và trình bày BCTC doanh nghiệp phải sử dụng TKKT. Vì vậy, từng TKKT và hệ thống các TKKT của doanh nghiệp sẽ giúp cho việc tạo lập và cung cấp thông tin kịp thời để lập BCTC phục vụ trước tiên cho doanh nghiệp và cho các đối tượng có nhu cầu sử dụng BCTC.

2.2.2. Hệ thống tài khoản kế toán trong doanh nghiệp sản xuất - kinh doanh

Hệ thống TKKT doanh nghiệp là danh mục các TKKT mà doanh nghiệp sử dụng trong hạch toán kế toán để phản ánh được toàn bộ tài sản, nguồn hình thành tài sản và sự vận động của chúng trong quá trình hoạt động SXKD của doanh nghiệp để làm cơ sở lập và trình bày BCTC đáp ứng yêu cầu của mọi đối tượng sử dụng thông tin do kế toán cung cấp47.

Hệ thống TKKT là nội dung quan trọng trong quá trình triển khai công tác kế toán của doanh nghiệp SXKD. Do vậy, TKKT và hệ thống TKKT doanh nghiệp có


ý nghĩa lớn trong công tác quản lý kinh tế tài chính nói chung cũng như trong công tác kế toán của từng doanh nghiệp nói riêng. Cụ thể là:

- TKKT và hệ thống TKKT giúp cho người làm kế toán tại doanh nghiệp có thể phân loại và hệ thống hoá được thông tin về tài sản, nguồn hình thành tài sản và các hoạt động kinh tế tài chính ở doanh nghiệp phục vụ cho công tác quản lý của Nhà nước, của các ngành và của từng doanh nghiệp. Thông qua các TKKT và phương pháp ghi chép, phản ánh các nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh vào các TKKT mà các nhà quản lý có thể nắm bắt được các thông tin kinh tế tài chính, là cơ sở để đưa ra các quyết định kinh tế và điều hành quản lý có hiệu quả.

- TKKT và hệ thống TKKT giúp cho việc hệ thống hoá các thông tin cụ thể, chi tiết về tình hình tài sản và sự vận động của tài sản tại doanh nghiệp phục vụ cho yêu cầu quản trị kinh doanh, yêu cầu phân cấp quản lý kinh tế trong doanh nghiệp, cũng như yêu cầu quản lý tài sản trong doanh nghiệp.

- TKKT và hệ thống TKKT giúp cho việc hệ thống hoá các số liệu theo các chỉ tiêu kinh tế, tài chính để lập được các báo cáo định kỳ theo yêu cầu của kế toán tài chính và kế toán quản trị.

2.2.3. Nguyên tắc, yêu cầu và nội dung phản ánh của hệ thống tài khoản kế toán trong doanh nghiệp sản xuất - kinh doanh

Việc nghiên cứu hoàn thiện hệ thống TKKT áp dụng trong các doanh nghiệp SXKD ở Việt Nam là hết sức cần thiết. Trên cơ sở nghiên cứu tác động của hệ thống TKKT tới nhu cầu của đối tượng sử dụng thông tin, nhu cầu của các đối tượng quản lý với hệ thống TKKT, các yếu tố tác động tới hoạt động xây dựng hệ thống TKKT áp dụng cho doanh nghiệp, tác giả đề xuất các nguyên tắc, yêu cầu nghiên cứu để hoàn thiện hệ thống TKKT doanh nghiệp SXKD như sau:


2.2.3.1. Nguyên tắc xây dựng hệ thống tài khoản kế toán trong doanh nghiệp sản xuất - kinh doanh

Để thực hiện được vai trò phân loại thông tin và cung cấp thông tin về tài sản, nguồn vốn và các hoạt động kinh tế tài chính phát sinh ở các doanh nghiệp, quá


trình nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện hệ thống TKKT áp dụng cho các doanh nghiệp SXKD phải dựa trên các nguyên tắc cơ bản, bao gồm:

(1) Nguyên tắc toàn diện

Nguyên tắc này đòi hỏi hệ thống TKKT doanh nghiệp phải đầy đủ về số lượng các loại TK, nhóm TK và số lượng TK các cấp trong từng nhóm TK; nguyên tắc kế toán trong từng loại TK và nhóm TK; kết cấu và nội dung phản ánh và phương pháp kế toán các nghiệp vụ kinh tế chủ yếu. Từ đó mới có thể triển khai thực hiện việc phân loại, hệ thống hóa tất cả các nghiệp vụ kinh tế phát sinh tại doanh nghiệp nhằm đảm bảo cung cấp thông tin đáng tin cậy, đầy đủ cho tất cả các đối tượng sử dụng với các mục đích khác nhau và trên cơ sở CMKT. Các đối tượng có nhu cầu sử dụng thông tin của hệ thống TKKT rất rộng, bao gồm:

(i) Các đối tượng là những người có trách nhiệm quản lý, điều hành doanh nghiệp như ban giám đốc, các phòng ban và những người có trách nhiệm giám sát quá trình quản lý điều hành doanh nghiệp như hội đồng quản trị, ban kiểm soát, … Các đối tượng này cần có thông tin thường xuyên, kịp thời để phục vụ quản trị doanh nghiệp nhằm điều hành, quản lý và đưa ra các quyết định kinh tế cho phù hợp.

(ii) Các đối tượng là các cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện các công việc thanh tra, kiểm tra và kiểm toán. Các đối tượng này phải hiểu biết về hệ thống TKKT của từng doanh nghiệp và khi thực hiện các công việc được giao phải được cung cấp đầy đủ, kịp thời, rõ ràng các thông tin về cả các nghiệp vụ kinh tế phát sinh của doanh nghiệp thông qua việc phân loại, hệ thống hóa các nghiệp vụ kinh tế phát sinh trên chứng từ của TKKT.

(iii) Các đối tượng có nhu cầu sử dụng BCTC (như cổ đông, nhà cung cấp, khách hàng, bên cho vay, …) để có được các thông tin về tình hình tài chính, tình hình kết quả hoạt động kinh doanh và lưu chuyển tiền tệ.

Như vậy, các đối tượng có nhu cầu sử dụng thông tin từ hệ thống TKKT là rất rộng, không chỉ là những người bên trong doanh nghiệp mà cả những người bên ngoài doanh nghiệp, đặc biệt là bên thứ ba, công chúng đầu tư và các cơ quan Nhà nước khi thực hiện thanh tra kế toán tại doanh nghiệp.


(2) Nguyên tắc tuân thủ

Việc nghiên cứu hoàn thiện hệ thống TKKT doanh nghiệp phải đảm bảo tuân thủ pháp luật và các quy định về kế toán bao gồm Luật Kế toán, các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Kế toán, CMKT. Trong đó, phải có đầy đủ các hướng dẫn về TKKT sử dụng, phương pháp kế toán để hướng dẫn thực hiện các CMKT. Ngoài ra, hệ thống TKKT phải đầy đủ các nội dung cụ thể về nội dung phản ánh và phương pháp kế toán các nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong từng TKKT để doanh nghiệp đảm bảo tuân thủ các chế độ, chính sách kinh tế, tài chính, thuế có liên quan, đảm bảo tính trung thực và khách quan của các thông tin cung cấp.

(3) Nguyên tắc phù hợp và linh hoạt

Hệ thống TKKT doanh nghiệp phải phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế, phù hợp với từng ngành nghề và lĩnh vực kinh doanh đặc thù; phù hợp với trình độ phát triển kinh tế của từng quốc gia và phù hợp với từng giai đoạn phát triển kinh tế và quản lý trong từng quốc gia.

Do CMKT quốc tế luôn được sửa đổi, bổ sung nên các quốc gia phải ban hành, cập nhật kịp thời các CMKT để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn phát sinh. Đồng thời các chính sách, chế độ kinh tế, tài chính, thuế, … luôn được bổ sung, sửa đổi ở tất cả các quốc gia và có nhiều các nghiệp vụ kinh tế phức tạp phát sinh, theo đó nguyên tắc linh hoạt yêu cầu hệ thống TKKT phải có độ linh hoạt cao, dễ thích ứng với sự thay đổi của môi trường kinh doanh, quy mô kinh doanh và khi có sự thay đổi trong hệ thống CMKT để phản ánh được thực trạng kinh doanh của doanh nghiệp, nhằm đảm bảo tuân thủ các quy định hiện hành.

(4) Nguyên tắc hội nhập và phát triển

Kế toán là một trong những công cụ quan trọng của Nhà nước để quản lý nền kinh tế. Các thông tin kinh tế, tài chính của các doanh nghiệp SXKD cung cấp không chỉ sử dụng trong nước mà còn được sử dụng cho các đối tượng bên ngoài lãnh thổ trong xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế, cùng với các hoạt động kinh doanh ngày càng phát triển đa dạng, đan xen mang tính khu vực và toàn cầu. Vì vậy, hệ thống TKKT doanh nghiệp phải phục vụ tốt cho công cuộc đổi mới kinh tế


của từng quốc gia. Trong xu hướng hội nhập, ở Việt Nam hiện nay có rất nhiều doanh nghiệp của Việt Nam đầu tư ra nước ngoài và khi đó các doanh nghiệp của Việt Nam phải tuân thủ khuôn khổ pháp luật và các quy định về kế toán của Việt Nam và đồng thời của nước mà doanh nghiệp Việt Nam đầu tư. Các doanh nghiệp này phải lập hai loại BCTC để gửi về Việt Nam cho mục đích hợp nhất BCTC và để công khai ở nước mà doanh nghiệp đầu tư. Ngược lại, các doanh nghiệp nước ngoài khi đầu tư vào Việt Nam cũng phải tuân thủ khuôn khổ pháp luật và các quy định về kế toán của Việt Nam và của nước có công ty mẹ đầu tư vào Việt Nam cho mục đích hợp nhất BCTC. Do vậy, cần giảm bớt sự khác biệt trong hệ thống TKKT doanh nghiệp nhằm đơn giản khối lượng công việc kế toán.

Nguyên tắc này đòi hỏi việc nghiên cứu hoàn thiện hệ thống TKKT doanh nghiệp SXKD phải dựa trên sự nghiên cứu, học tập, tiếp thu, vận dụng có chọn lọc thông lệ quốc tế và kinh nghiệm của các nước cho phù hợp với điều kiện của Việt Nam.


2.2.3.2. Yêu cầu xây dựng hệ thống tài khoản kế toán trong doanh nghiệp sản xuất - kinh doanh

Để tuân thủ các nguyên tắc nghiên cứu xây dựng và hoàn thiện hệ thống TKKT doanh nghiệp SXKD như đã nêu trên, đặt ra các yêu cầu phải thực hiện trong quá trình nghiên cứu hoàn thiện hệ thống TKKT doanh nghiệp SXKD như sau:

(1) Bảo đảm tính thống nhất

Theo yêu cầu này cần có sự nghiên cứu để Nhà nước xây dựng và ban hành một hệ thống TKKT để áp dụng cho tất cả các doanh nghiệp trong phạm vi từng quốc gia. Việc ban hành một hệ thống TKKT doanh nghiệp thống nhất sẽ tạo thuận lợi hơn cho cả cơ quan nghiên cứu, ban hành và cho cả khi triển khai thực hiện. Từ đó khắc phục được hạn chế do quá phức tạp, gây khó khăn khi triển khai thực hiện nếu Nhà nước ban hành nhiều hệ thống TKKT cho các doanh nghiệp nói chung và cho từng lĩnh vực kinh doanh đặc thù hoặc cho từng quy mô, loại hình doanh nghiệp. Đồng thời, yêu cầu phải đảm bảo tính thống nhất của hệ thống TKKT doanh nghiệp sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho quản lý Nhà nước về kế toán, cho các cơ quan

Xem tất cả 228 trang.

Ngày đăng: 23/09/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí