Quá Trình Hình Thành Và Phát Triển Hệ Thống Tài Khoản Kế Toán Áp Dụng Trong Các Doanh Nghiệp Sản Xuất-Kinh Doanh Ở Việt Nam


- Quy định một hệ thống TKKT thống nhất áp dụng cho mọi loại hình doanh nghiệp;

- Quy định các khái niệm và giải thích cho các thuật ngữ kế toán;

- Diễn giải cách thức ghi kép, quy định cụ thể các TK được ghi Nợ, ghi Có trong quá trình ghi chép các sự kiện và các nghiệp vụ kinh tế phát sinh;

- Quy định về các thước đo sử dụng trong kế toán;

- Quy định hệ thống BCTC bao gồm số lượng báo cáo, các chỉ tiêu trên báo cáo, quan hệ giữa BCTC và hệ thống TKKT cung cấp thông tin. Các nội dung phản ánh trên từng TK được quy định cụ thể giúp cho việc báo cáo lãi lỗ và BCĐKT. Hệ thống TKKT còn quy định những TK cần thiết cho việc cung cấp thông tin cho việc lập thuyết minh BCTC.

Hệ thống TKKT doanh nghiệp của Pháp có những ưu điểm như sau:

- Thuận lợi trong quá trình hướng dẫn của Nhà nước, của các tập đoàn doanh nghiệp, đặc biệt là trong công tác đào tạo kế toán của các cơ sở đào tạo. Hệ thống TKKT thống nhất dẫn đến sự thống nhất trong quá trình triển khai, áp dụng trong thực tế.

- Hệ thống TKKT thống nhất được coi như là ngôn ngữ chung cho người làm kế toán. Hệ thống TKKT được đánh số, phân loại thống nhất nên chi phí cho việc ghi chép trên sổ kế toán, chi phí đào tạo, chi phí cho việc xây dựng các phần mềm kế toán được giảm đi nhiều.

- Hệ thống TKKT thống nhất sẽ là cứng nhắc nhưng theo cách thức xây dựng hệ thống TKKT của Pháp, các TK được chi tiết theo ba cấp bậc nên có thể áp dụng phù hợp vào mọi loại hình doanh nghiệp.

- Thuận lợi, hữu ích cho các tổ chức cung cấp dịch vụ kế toán, dịch vụ tư vấn và cho các công việc thanh kiểm tra, giám sát của các cơ quan quản lý Nhà nước vì trong một thời gian ngắn nhất có thể thu thập được những thông tin cần thiết.

Tuy vậy, hệ thống TKKT Pháp vẫn tồn tại một số hạn chế sau:

- Do hệ thống TKKT được xây dựng trên cơ sở các CMKT và các chính sách, chế độ kinh tế, tài chính, thuế có liên quan mà các CMKT và các chính sách,


chế độ kinh tế, tài chính, thuế luôn có sự bổ sung, sửa đổi ở tất cả các quốc gia. CMKT quốc tế đang trong quá trình bổ sung, sửa đổi, xây dựng trên cơ sở nền kinh tế thị trường phát triển cao. Do đó, mỗi khi có sự thay đổi trong CMKT và các chính sách, chế độ có liên quan thì phải có sự nghiên cứu để hướng dẫn việc sử dụng TKKT và phương pháp kế toán cho phù hợp. Các thay đổi này sẽ làm tăng chi phí và khối lượng công việc cho cơ quan nghiên cứu, ban hành, cho công tác đào tạo, ấn phẩm và cho doanh nghiệp khi triển khai thực hiện.

- Ít cơ hội lựa chọn cho các chính sách của kế toán trừ các TK theo nhóm. Một thực tế là kế toán chỉ là quá trình ghi nhận, phản ánh thực tế. Các chính sách kế toán bao giờ cũng được xây dựng sau khi một vấn đề thực tế đã phát sinh. Khi thống nhất hệ thống TKKT, một số chính sách kế toán chưa dự kiến trước khi phát sinh sẽ phải mất thời gian cân nhắc về việc phản ánh vào loại TK nào, nhóm TK nào, ghi nhận đầu kỳ, trong kỳ hay cuối kỳ kế toán.

- Chưa tạo ra sự chủ động, sáng tạo cho doanh nghiệp và người làm kế toán. Hệ thống TKKT thống nhất tạo ra một khuôn khổ mà doanh nghiệp và người làm kế toán phải tuân theo trong quá trình thực hiện công việc kế toán. Cho dù xuất hiện một sự bất hợp lý nào đó hoặc theo yêu cầu của quản lý, một thông tin có thể được đơn giản hóa trong quá trình xử lý, ghi chép thì kế toán vẫn không thể thay đổi quy trình đã quy định.

* Tại Trung Quốc:

Trung Quốc là quốc gia đang phát triển và có nhiều điểm tương đồng về kinh tế, chính trị với Việt Nam. Do vậy, kinh nghiệm của Trung Quốc là bài học lớn đối với Việt Nam.

Trung Quốc là một nước có nền kinh tế kế hoạch hóa, tập trung bắt đầu quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước cách đây hơn ba mươi năm. Tuy vậy Nhà nước vẫn luôn giữ vai trò quan trọng trong việc quản lý thống nhất về lĩnh vực kế toán, kiểm toán. Với những bước đi riêng có, phù hợp với tiến trình đổi mới cơ chế quản lý nền kinh tế trong từng giai đoạn cụ thể,


công cuộc cải cách kế toán, kiểm toán của Trung Quốc đã đạt được những thành tựu đáng kể.

Với chính sách “mở cửa”, cuối những năm 1980, Trung Quốc đã thiết lập một hệ thống kinh tế mới được gọi là hệ thống kinh tế thị trường XHCN. Tương ứng với chính sách quản lý kinh tế mới, hệ thống kế toán Trung Quốc được cải cách theo hướng phù hợp hơn với hệ thống kế toán các nước phương Tây. Luật Kế toán Trung Quốc được ban hành năm 1985 và được sửa đổi năm 1993. Năm 2001, hệ thống kế toán Trung Quốc có những cải cách quan trọng. Bộ Tài chính đã ban hành “Hệ thống kế toán thống nhất áp dụng cho các doanh nghiệp”. Hệ thống kế toán này áp dụng cho mọi loại hình doanh nghiệp của Trung Quốc. Trong hệ thống kế toán này có hệ thống TKKT. Hệ thống kế toán của Trung Quốc bao gồm các quy định cụ thể mang tính kỹ thuật gồm các quy định chi tiết về hệ thống TKKT, sổ kế toán và BCTC. Các quy định cụ thể còn được chi tiết theo từng ngành nghề, lĩnh vực đặc thù. Năm 2006, ở Trung Quốc đã ban hành CMKT cơ bản và 38 CMKT cụ thể có hiệu lực từ năm 2007. Hệ thống CMKT này do Ủy ban CMKT Nhà nước ban hành theo hướng hài hòa với CMKT quốc tế. Hiện nay, Trung Quốc vẫn đang tiếp tục phát triển, hoàn thiện hệ thống khuôn khổ pháp luật về kế toán cho phù hợp với yêu cầu quản lý, phù hợp với thông lệ, CMKT quốc tế để đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Cho đến nay, Bộ Tài chính Trung Quốc đã ban hành nhiều CĐKT (trong đó bao gồm hệ thống TKKT) áp dụng cho từng ngành cụ thể65. Đó là CĐKT cho các ngành: công nghiệp, nông nghiệp, thương mại, xây dựng, giao thông vận tải, du lịch và dịch vụ ăn uống, hàng không, bảo hiểm, đường sắt, bưu chính viễn thông, CĐKT cho các tổ chức niêm yết, CĐKT ngân hàng, công ty tài chính.

Như vậy, theo xu hướng xây dựng hệ thống TKKT thống nhất do Bộ Tài chính ban hành, nhưng ở Trung Quốc hiện đang còn nhiều hệ thống TKKT cho các nghề và lĩnh vực kinh doanh khác nhau. Đặc điểm này có sự tương đồng với Việt nam hiện nay.


2.3.2. Bài học kinh nghiệm áp dụng cho Việt Nam

Qua nghiên cứu về khuôn khổ pháp luật và các quy định về kế toán, mà trọng tâm là hệ thống TKKT doanh nghiệp của các nước trên thế giới có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong việc nghiên cứu hoàn thiện hệ thống TKKT áp dụng trong các doanh nghiệp SXKD như sau:

Thứ nhất, nhận thức đúng sự cần thiết phải nghiên cứu hoàn thiện hệ thống TKKT doanh nghiệp hiện hành. Do chất lượng thông tin tài chính được phản ánh đầy đủ, kịp thời, rõ ràng, đáng tin cậy thông qua hệ thống BCTC và báo cáo quản trị nhằm đáp ứng yêu cầu của kế toán tài chính và kế toán quản trị là mục đích cuối cùng mà Nhà nước và doanh nghiệp hướng tới. Để nâng cao chất lượng thông tin tài chính, một trong các công việc phải làm là nghiên cứu hoàn thiện hệ thống TKKT doanh nghiệp SXKD.

Thứ hai, kế toán là vấn đề mang tính toàn cầu hiện nay, nên khi nghiên cứu hoàn thiện hệ thống TKKT doanh nghiệp các quốc gia phải xem xét trong mối quan hệ tổng thể toàn bộ khuôn khổ pháp luật và các quy định về kế toán đứng trên quan điểm hội nhập và kế thừa các ưu điểm trong các quy định hiện hành theo lộ trình phù hợp. Mặt khác, một hệ thống kế toán doanh nghiệp, trong đó có hệ thống TKKT doanh nghiệp, thường gắn liền với một hệ thống kinh tế nhất định và chịu sự chi phối của thể chế kinh tế, chính trị của từng quốc gia. Vì vậy, quá trình nghiên cứu và hoàn thiện hệ thống TKKT doanh nghiệp vừa phải đảm bảo tính hội nhập, vừa phải phù hợp với đặc điểm hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và phù hợp với đặc điểm, trình độ phát triển kinh tế của từng quốc gia. Đồng thời phải nghiên cứu hoàn thiện hệ thống TKKT đồng bộ với khuôn khổ pháp luật và các quy định về kế toán.

Thứ ba, hệ thống TKKT cần hoàn thiện theo hướng xây dựng một hệ thống TKKT thống nhất, đảm bảo tính “đóng” và tính “mở” hay còn gọi là đảm bảo tính thống nhất và phát huy tính chủ động, tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp. Về tính “đóng”, cần xác định rõ phạm vi Nhà nước quy định thống nhất về loại TK, nhóm TK và nguyên tắc, phương pháp kế toán các nghiệp vụ kinh tế chủ yếu để


thuận lợi cho việc hướng dẫn, đào tạo; cho công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm toán và quản lý Nhà nước về kế toán. Đồng thời có cơ sở pháp lý để tất cả các doanh nghiệp thống nhất thực hiện. Điều này phù hợp với điều kiện và trình độ kế toán và quản lý của Việt Nam hiện nay. Về tính “mở”, do thực tiễn kinh doanh rất đa dạng, liên tục phát triển, CMKT luôn được cập nhật hoàn thiện ở tất cả các quốc gia, vì vậy để giảm các công việc hướng dẫn chi tiết, cụ thể, thường xuyên phải làm của Nhà nước, tránh tình trạng có nhiều hệ thống TKKT trong một quốc gia cho từng lĩnh vực kinh doanh, hệ thống TKKT doanh nghiệp cần hoàn thiện theo hướng cho phép doanh nghiệp chủ động thiết kế và thực hiện cho phù hợp với đặc thù của doanh nghiệp. Cần xác định rõ các nội dung liên quan đến hệ thống TKKT mà doanh nghiệp được chủ động trên cơ sở CMKT và các quy định có liên quan. Muốn vậy, cần nghiên cứu lý luận, thông lệ quốc tế và khảo sát, đánh giá thực tiễn hệ thống TKKT áp dụng trong các doanh nghiệp SXKD ở Việt nam để đề xuất các quan điểm và giải pháp hoàn thiện cho phù hợp.


KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

Kế toán hình thành và phát triển gắn liền với sự hình thành và phát triển của nền kinh tế sản xuất hàng hoá. Sự hình thành của kế toán là cần thiết và tất yếu của nền kinh tế sản xuất hàng hoá. Trong đó, TKKT và hệ thống TKKT doanh nghiệp là bộ phận quan trọng của hệ thống kế toán.

Trên cơ sở những nội dung lý luận cơ bản về hệ thống TKKT doanh nghiệp, khái quát chung và kinh nghiệm của các nước trên thế giới để rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. Những nguyên tắc, yêu cầu, nội dung khi xây dựng hệ thống TKKT doanh nghiệp là định hướng cơ bản cho việc nghiên cứu thực trạng áp dụng hệ thống TKKT doanh nghiệp SXKD hiện nay ở Việt Nam nhằm đưa ra các quan điểm và giải pháp hoàn thiện hệ thống TKKT hiện hành áp dụng trong các doanh nghiệp SXKD ở Việt Nam.


CHƯƠNG 3

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VỀ HỆ THỐNG TÀI KHOẢN KẾ TOÁN HIỆN HÀNH ÁP DỤNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT - KINH DOANH Ở VIỆT NAM


3.1. Quá trình hình thành và phát triển hệ thống tài khoản kế toán áp dụng trong các doanh nghiệp sản xuất-kinh doanh ở Việt Nam

Với vai trò là cơ sở để chuẩn hóa các quy trình báo cáo thông tin trong doanh nghiệp, làm tăng tính hữu dụng của thông tin kế toán đối với các đối tượng sử dụng, hệ thống TKKT doanh nghiệp SXKD ở Việt Nam đã từng bước được hoàn thiện nhằm phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ và cơ chế quản lý nền kinh tế Việt Nam trong từng thời kỳ (giai đoạn) phát triển của đất nước.

Trải qua các giai đoạn phát triển khác nhau của nền kinh tế, hệ thống TKKT doanh nghiệp SXKD nói riêng và chế độ kế toán Việt Nam nói chung đã có những bước phát triển đáng kể. Quá trình hình thành và phát triển hệ thống TKKT doanh nghiệp SXKD ở Việt Nam có thể khái quát qua ba giai đoạn: Giai đoạn từ năm 1954 đến năm 1995; Giai đoạn từ năm 1995 đến tháng 3/2006, và giai đoạn từ tháng 3/2006 đến nay.

3.1.1. Giai đoạn từ năm 1954 đến năm 1995

Ngay sau khi hoà bình lập lại, miền Bắc tiến hành xây dựng Chủ nghĩa xã hội với nền kinh tế vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung. Cùng với việc đẩy mạnh công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Nhà nước đã coi kế toán là một bộ phận cấu thành quan trọng của hệ thống các công cụ quản lý kinh tế, tài chính nhằm quản lý và điều hành mọi hoạt động SXKD và bảo vệ tài sản XHCN.

Năm 1957, nhằm đáp ứng yêu cầu chuyển các xí nghiệp quốc doanh sang chế độ hạch toán kinh tế, Nhà nước thực hiện quản lý có kế hoạch toàn diện hoạt động của xí nghiệp quốc doanh, Bộ Tài chính đã ban hành CĐKT đầu tiên áp dụng cho ngành công nghiệp1.


Năm 1961, theo Nghị định 175/CP ngày 28/10/1961, Chính phủ đã ban hành Điều lệ tổ chức kế toán Nhà nước37. Từ năm 1961 cho đến năm 1970, trên cơ sở học tập kinh nghiệm của Trung Quốc, căn cứ vào Điều lệ tổ chức kế toán Nhà nước, Bộ Tài chính đã lần lượt ban hành hệ thống TKKT áp dụng cho các ngành kinh tế: công nghiệp, thương nghiệp, xây dựng cơ bản, nông nghiệp.v.v.. vào năm 1961. Trong hệ thống TKKT, ngoài những TK phản ánh các đối tượng kế toán chủ yếu là tài sản và nguồn hình thành tài sản, cũng có những TK phản ánh những nét đặc trưng của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung như "Ngân sách cấp bù lỗ", "Vay ngân hàng trong định mức tiêu chuẩn", "Vay ngân hàng trên định mức tiêu chuẩn". Tiền gửi ngân hàng được phản ánh ở nhiều tài khoản như "Tiền gửi ngân hàng về vốn lưu động", "Tiền gửi ngân hàng về quỹ xí nghiệp", "Tiền gửi ngân hàng về sửa chữa lớn".

Từ năm 1970, với sự giúp đỡ của các chuyên gia Liên Xô, để phục vụ công tác quản lý kinh tế vi mô lẫn vĩ mô đạt được hiệu quả, Bộ Tài chính đã ban hành hệ thống TKKT thống nhất theo Quyết định số 425 - TC/CĐKT ngày 14/12/19702 và được sửa đổi và bổ sung theo Quyết định số 231 - TC/CĐKT ngày 17/7/19713. Hệ thống TKKT thống nhất do Bộ Tài chính ban hành, ngày 14/12/1970 thay thế các quy định về hệ thống TKKT trước đó, đây là một hệ thống TKKT thống nhất đầu tiên trong lịch sử kế toán Việt Nam. Hệ thống TKKT này được áp dụng cho tất cả các xí nghiệp quốc doanh thuộc các ngành kinh tế quốc dân. Các nội dung trong hệ thống TKKT thống nhất quy định loại TK, số lượng, nội dung, phương pháp kế toán của các TK và phạm vi áp dụng cụ thể cho từng ngành kinh tế khác nhau (công nghiệp, xây dựng, thương nghiệp, nông nghiệp quốc doanh, hợp tác xã...). Trong giai đoạn này, ngoài hệ thống TKKT, chế độ chứng từ ban đầu, sổ kế toán, báo cáo kế toán cũng được ban hành đồng bộ góp phần tăng cường nền tảng pháp lý của công tác kế toán áp dụng ở doanh nghiệp.

Hệ thống TKKT thống nhất ban hành theo Quyết định số 425 năm 1970 được sửa đổi và bổ sung theo Quyết định số 231 năm 1971 bao gồm 68 tài khoản trong


bảng và 9 tài khoản ngoài bảng được chia thành 9 loại và được ký hiệu từ số 01 đến 09.

Bảng 3.1. Danh mục các loại TKKT ban hành theo Quyết định số 425 - TC/CĐKT ngày 14/12/1970

Ký hiệu

Loại tài khoản

01 - 03

TSCĐ

05 - 15

Dự trữ sản xuất

20 - 29

Chi phí sản xuất

30 - 37

Thành phẩm hàng hoá và tiêu thụ

38 - 42

Vốn bằng tiền

43 - 56

Thanh toán

57

Vốn trích

58

Tài sản hư hỏng, thiếu hụt hoặc chờ gải quyết

59 - 63

Nguồn vốn

64 - 67

Vay ngân hàng và các khoản cấp phát

68

Lãi và lỗ

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 228 trang tài liệu này.

Nghiên cứu hệ thống tài khoản kế toán áp dụng trong các doanh nghiệp sản xuất - kinh doanh ở Việt Nam - 8

Trong hệ thống TKKT này, các TKKT được mở để có tên gọi riêng phù hợp với tên gọi của đối tượng kế toán mà tài khoản đó phản ánh. Đây là hệ thống TKKT phản ánh đúng thực trạng xí nghiệp quốc doanh trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, như: TK 28 - Công tác xây dựng cơ bản, mua sắm TSCĐ đã đưa vào sử dụng và các khoản chi phí chờ duyệt y. Do yêu cầu của công tác quản lý kế hoạch hoá tập trung nên các TK được mở trong hệ thống TKKT này tương đối chi tiết, cụ thể. Giai đoạn này, Nhà nước quản lý toàn diện các xí nghiệp quốc doanh nên khối lượng nghiệp vụ kinh tế phát sinh chưa nhiều do các xí nghiệp này SXKD theo kế hoạch Nhà nước giao nên hệ thống TKKT còn đơn giản, ít TK, chỉ mở theo hai cấp TK và tiểu khoản.

Như vậy, hệ thống TKKT ban hành theo Quyết định số 425 năm 1970 chỉ áp dụng cho xí nghiệp quốc doanh với mục tiêu là các xí nghiệp quốc doanh phân loại, hệ thống hóa các nghiệp vụ kinh tế phát sinh để tổng hợp thông tin phục vụ chủ yếu

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 23/09/2022