Nghiên cứu đánh giá tài nguyên du lịch sinh thái khu di tích thắng cảnh chùa Hương xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội - 2


cho khu di tích thắng cảnh Chùa Hương một cảnh quan thiên nhiên đẹp và hấp dẫn cùng với hệ thống đền chùa, miếu mạo nổi tiếng. Các công trình tôn giáo hòa nhập giữa phong cảnh thiên nhiên tươi đẹp là một đặc trưng của khu du lịch Hương Sơn, hấp dẫn hàng chục vạn du khách đến vãn cảnh và tham gia lễ hội mỗi năm. Rừng đặc dụng Hương Sơn cũng là một kho dự trữ thiên nhiên to lớn về bảo tồn nguồn gen, các loài quý hiếm, loài đặc hữu. Hệ thực vật gồm 840 loài, 540 chi thuộc 185 họ của 6 ngành thực vật bậc cao có mạch với nhiều loài thực vật quý hiếm như: Sưa bắc bộ, Lát hoa, Rau sắng, Mơ Hương tích và nhiều loài là thực vật thân thảo có giá trị dược phẩm cao như: Hoàng đằng cẩu tích, Đẳng sâm, Ba kích… Hệ động vật cũng rất đa dạng và phong phú gồm 28 loài động vật thuộc 84 họ, 26 bộ thuộc các lớp động vật ở cạn: thú, chim, bò sát, ếch nhái và một số loài lưỡng cư. Trong đó có nhiều loài là động vật Quý hiếm như: Gà lôi trắng, Culi, Khỉ, Vượn, Rắn hổ mang chúa… Có giá trị cao về Bảo tồn nguồn gen, nghiên cứu khoa học, giáo dục, du lịch sinh thái. Đây là tiềm năng rất lớn cho phát triển DLST, du lịch văn hóa cộng đồng, và điều tra nghiên cứu khám phá thiên nhiên.

Mặc dù có nhiều tiềm năng để phát triển mở rộng phát triển các loại hình du lịch nhưng việc khai thác các hoạt động du lịch tại khu vực khu di tích thắng cảnh chùa Hương hiện nay chủ yếu thiên về khai thác loại hình du lịch tâm linh trong thời điểm tổ chức lễ hội, các loại hình du lịch khác phát triển còn rất hạn chế, chưa tương xứng với nguồn tài nguyên du lịch vốn có. Những nguyên nhân chính của vấn đề này là chưa có những đánh giá đúng mức về các giá tiềm năng tài nguyên du lịch hiện có, đặc biệt là tài nguyên du lịch sinh thái phục vụ cho phát triển du lịch. Do đó, để có những cơ sở khoa học phục vụ cho việc đa dạng hóa các loại hình du lịch tại khu vực và khai thác bền vững các tiềm năng tài nguyên du lịch tại đây, việc “Nghiên cứu đánh giá tài nguyên du lịch sinh thái khu di tích thắng cảnh chùa Hương xã Hương Sơn huyện Mỹ Đức thành phố Hà Nội ” là rất cần thiết.



1.1. Trên thế giới

Chương 1

TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1.1. Nghiên cứu về du lịch sinh thái

Du lịch sinh thái được coi là một trong những cách thức vừa hỗ trợ bảo tồn đồng thời Phát triển kinh tế xã hội một cách bền vững. Tại hội nghị các Vườn Quốc gia thế giới lần thứ V do IUCN tổ chức đã khẳng định “Du lịch Sinh thái ở trong và ngoài khu bảo tồn là một phương pháp bảo tồn, hỗ trợ, tăng cường nhận thức về các giá trị quan trọng của khu bảo tồn như giá trị sinh thái, văn hóa, tinh thần, thẩm mỹ, giải trí và kinh tế; đồng thời tạo thu nhập phục vụ cho việc bảo tồn, bảo vệ đa dạng sinh học, hệ sinh thái và di sản văn hóa. Du lịch sinh thái cũng đóng góp nâng cao chất lượng cuộc sống cho cộng đồng bản địa”.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 128 trang tài liệu này.

Du lịch sinh thái đã mang lại nhiều lợi ích cụ thể trong lĩnh vực bảo tồn và phát triển bền vững. Ở Cossta Rica và Nê Pan, Thái Lan… một số chủ trang trại chăn nuôi đó bảo vệ nhiều diện tích rừng nhiệt đới quan trọng, và do bảo vệ rừng mà họ đó biến những nơi đó thành điểm du lịch sinh thái hoạt động tốt, giúp bảo vệ các hệ sinh thái tự nhiên đồng thời tạo ra công ăn việc làm mới cho dân địa phương. Đặc biệt là tại các nước phát triển như Thuỵ Điển, Nhật Bản, Mỹ... các KBT được xây dựng dựa trên sự kết hợp giữa bảo tồn và phát triển du lịch, nhiều loại hình du lịch được hình thành như leo núi, thăm động vật hoang dã trong xe bảo vệ, theo dõi cuộc sống của các loài linh trưởng, ngắm nhìn các loại động thực vật biển...Gần đây, một số nước Châu Phi cũng rất chú trọng phát triển loại hình du lịch này, ở một số nước như Uganda, Nigeria... việc phát triển du lịch sinh thái được đưa vào trong chiến lược phát triển kinh tế của đất nước. Du lịch sinh thái cũng rất phổ biến ở Trung và Nam Mỹ. Các điểm đến bao gồm Bolivia, Brazil, Ecuador, Venezuela, Guatemala và Panama. Tại Guatemala mục tiêu chính của du lịch sinh thái sinh thái là giáo dục du khách về truyền thống văn hóa lịch sử của người Maya, Itza, bảo vệ các vùng đất trong dự trữ sinh quyển Maya và cung cấp thu nhập cho người dân của khu vực. Mặc dù sự phổ biến của du lịch sinh thái trong các ví dụ nêu trên, các nhà phê bình


Nghiên cứu đánh giá tài nguyên du lịch sinh thái khu di tích thắng cảnh chùa Hương xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội - 2

của du lịch sinh thái cũng trích dẫn rằng du lịch tới khu vực hoặc các hệ sinh thái nhạy cảm tăng mà không có quy hoạch và quản lý thực sự có thể gây hại cho hệ sinh thái bởi vì cơ sở hạ tầng cần thiết để duy trì du lịch như: đường giao thông có thể đóng góp vào suy thoái môi trường. Các nhà phê bình cũng cho biết du lịch sinh thái dễ tác động tiêu cực đến cộng đồng địa phương vì sự xuất hiện của du khách nước ngoài. (Amanda Briney, “An Overview of Ecotourism” [1] )

Hector Ceballos-Lascurain- một nhà nghiên cứu tiên phong về du lịch sinh thái, định nghĩa DLST lần đầu tiên vào năm 1987 như sau: "Du lịch sinh thái là du lịch đến những khu vực tự nhiên ít bị ô nhiễm hoặc ít bị xáo trộn với những mục tiêu đặc biệt: nghiên cứu, trân trọng và thưởng ngoạn phong cảnh và giới động-thực vật hoang dã, cũng như những biểu thị văn hoá (cả quá khứ và hiện tại) được khám phá trong những khu vực này"

“DLST là du lịch tại các vùng còn chưa bị con ngươi làm biến đổi. Nó phải đóng góp vào BTTN và phúc lợi của dân địa phương” (L.Hens, 1998).

Theo Hiệp hội DLST Hoa Kỳ,1998 “DLST là du lịch có mục đích với các khu tự nhiên, hiểu biết về lịch sử văn hóa và lịch sử tự nhiên của môi trường, không làm biến đổi tình trạng của hệ sinh thái, đồng thời tạo cơ hội để phát triển kinh tế, bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên và lợi ích tài chính cho cộng đồng địa phương” Theo Hiệp hội Du lịch Sinh Thái (The Internatonal Ecotourism society) thì “DLST là du lịch có trách nhiệm với các khu thiên nhiên là nơi bảo tồn môi trường và

cải thiện phúc lợi cho nhân dân địa phương”.

Đối với cá nhân, định nghĩa chính xác và hoàn chỉnh là định nghĩa của Honey (1999) “DLST là du lịch tới những khu vực nhạy cảm và nguyên sinh thường được bảo vệ với mục đích nhằm gây ra ít tác hại và với quy mô nhỏ nhất. Nó giúp giáo dục du khách, tạo quỹ để bảo vệ môi trường, nó trực tiếp đem lại nguồn lợi kinh tế và sự tự quản lý cho người dân địa phương và nó khuyến khích tôn trọng các giá trị văn hóa và quyền con người”.

Như vậy khái niệm, tính chất của DLST đã được nhiều cơ quan tổ chức, cá nhân trên thế giới nghiên cứu đưa ra và hiện nay DLST đang phát triển mạnh mẽ


toàn cầu, ngày càng chiếm tỷ trọng cao trong các loại hình du lịch. Sự tăng trưởng nhanh chóng của du lịch tự nhiên và du lịch sinh thái đến các khu BTTN đã kéo theo sự thay đổi chiến lược trong quản lý khu vực bảo tồn theo hướng phát triển tích hợp. Do đó các khu BTTN nên xem xét làm thế nào để có thể kiểm soát du lịch tự nhiên đến các khu vực quản lý và chuyển đổi nó trở thành du lịch sinh thái vì lợi ích của việc bảo tồn và sinh kế của người dân địa phương.

1.1.2. Nghiên cứu về tài nguyên du lịch sinh thái

Nghiên cứu về tài nguyên du lịch sinh thái trên thế giới đã bắt đầu từ những năm 50 của thế kỷ 20. Từ trước những năm 80 của thế kỷ 20, tài nguyên du lịch sinh thái được định nghĩa là những khu cảnh quan thiên nhiên đẹp có sức hấp dẫn cho du lịch và sự hấp dẫn đó được đánh giá chủ yếu thông qua khả năng chi trả tự nguyện của du khách thông qua tiền vé tham quan. Du khách đi du lịch tại những khu cảnh quan thiên nhiên đẹp chủ yếu là để ngắm cảnh, giải trí và thư giãn sau những ngày làm việc căng thẳng.

Theo Clawson và Knelsch (1985), Tài nguyên DLST lấy hệ sinh thái tự nhiên làm trọng tâm, việc khai thác loại hình tài nguyên này cho mục đích du lịch phải nhấn mạnh đến công tác bảo vệ môi trường tự nhiên và gắn liền với sự phát triển bền vững về kinh tế xã hội của khu vực.Trên quan điểm này, những nơi có thể khai thác phát triển du lịch sinh thái chủ yếu là những khu bảo tồn thiên nhiên, công viên rừng, khu danh lam thắng cảnh, các khu vườn động, thực vật.

Theo Lindberg (1991), nếu xét về phạm trù tài nguyên DLST thì tài nguyên DLST bao gồm tài nguyên DLST tự nhiên và tài nguyên DLST nhân văn, nếu xét trên cơ sở nguyên nhân hình thành thì tài nguyên DLST được phân chia thành phần tài nguyên DLST nguyên sinh và tài nguyên DLST thứ sinh, còn nếu trên cơ sở động cơ du lịch thì tài nguyên DLST gồm loại tài nguyên DLST nghỉ dưỡng, tài nguyên DLST thám hiểm, tài nguyên DLST rèn luyện sức khỏe và loại tài nguyên DLST phong cảnh.

Theo Yuan Shu Qi – (2004), cho rằng dựa trên đặc điểm phân bố của tài nguyên DLST trong không gian có thể chia phân chia tài nguyên DLST thành 5 loại


hình gồm: tài nguyên DLST đồi núi, tài nguyên DLST sông hồ, tài nguyên DLST biển, tài nguyên DLST đất ngập nước và tài nguyên DLST thảo nguyên,

Qua một số quan điểm về tài nguyên DLST nói trên, có thể nhận thấy về tài nguyên DLST vẫn còn có những điểm chưa thống nhất nhưng đa số đều đề cập đến vấn đề về tài nguyên thiên nhiên.

1.2. Ở Việt Nam

Ở Việt Nam, hội thảo về “Xây dựng chiến lược phát triển DLST ở Việt Nam” từ ngày 7 đến ngày 9/9/1999 đã đưa ra định nghĩa về DLST là: “DLST là loại hình du lịch dựa vào thiên nhiên và văn hóa bản địa, gắn với giáo dục môi trường, có đóng góp cho nỗ lực bảo tồn và phát triển bền vững, với sự tham gia tích cực của cộng đồng địa phương”. Ngoài những khái niệm và định nghĩa trên còn có một số định nghĩa mở rộng hơn về nội dung của DLST: “DLST là một loại hình du lịch lấy các hệ sinh thái đặc thù, tự nhiên làm đối tượng để phục vụ cho những khách du lịch yêu thiên nhiên, du ngoạn, thưởng thức những cảnh quan hay nghiên cứu về các hệ sinh thái. Đó cũng là hình thức kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa phát triển kinh tế du lịch với giới thiệu về những cảnh đẹp của quốc gia cũng như giáo dục tuyên truyền và bảo vệ, phát triển môi trường và tài nguyên thiên nhiên một cách bền vững” (Lê Huy Bá – 2000)

Trong luật du lịch năm 2005, đã định nghĩa khá ngắn gọn “ du lịch sinh thái là hình thức du lịch dựa vào thiên nhiên gắn với bản sắc văn hóa địa phương với sự tham gia của cộng đồng nhằm phát triển bền vững”.

Cho đến nay, khái niệm DLST vẫn còn được hiểu dưới nhiều góc độ khác nhau, với những tên gọi khác nhau. Mặc dù, những tranh luận vẫn còn đang diễn tiến nhằm tìm ra một định nghĩa chung nhất về DLST, nhưng đa số ý kiến của các chuyên gia hàng đầu về DLST đều cho rằng DLST là loại hình du lịch dựa vào thiên nhiên, hỗ trợ cho các hoạt động bảo tồn và được nuôi dưỡng, quản lí theo hướng bền vững về mặt sinh thái. Du khách sẽ được hướng dẫn tham quan với những diễn giải cần thiết về môi trường để nâng cao hiểu biết, cảm nhận được giá trị thiên nhiên và văn hóa mà không gây ra những tác động không thể chấp nhận đối với các hệ sinh thái và


văn hóa bản địa. DLST nói theo một định nghĩa nào chăng nữa thì nó phải hội đủ các yếu tố cần: (1) sự quan tâm tới thiên nhiên và môi trường; (2) trách nhiệm với xã hội và cộng đồng..( Lê Huy Bá, 2003, Du lịch sinh thái, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh.

Du lịch sinh thái là một loại hình du lịch mới cả về khái niệm lẫn tổ chức kỹ thuật không riêng gì với Việt Nam mà ở nhiều nước. Tiềm năng du lịch sinh thái to lớn của Việt Nam cũng như thị trường du lịch sinh thái trong nước chưa được khai thác có hiệu quả. Trong những năm qua mới chỉ tập trung chủ yếu vào công tác quy hoạch tổng thể phát triển du lịch mang tính định hướng chiến lược và đầu tư vào hệ thống cơ sở hạ tầng khách sạn du lịch. Công tác điều tra cơ bản, quy hoạch những vùng tiềm năng phục vụ cho mục đích phát triển du lịch sinh thái hầu như còn ở giai đoạn đầu.

- Về tổ chức các loại hình du lịch sinh thái và thị trường du lịch sinh thái: Trước nhu cầu của thị trường và khả năng đáp ứng của các tiềm năng du lịch sinh thái của Việt Nam, tại một số nơi hoạt động du lịch sinh thái cũng đã hình thành dưới các hình thức khai thác tiềm năng tài nguyên du lịch tự nhiên khác nhau như du lịch tham quan, nghiên cứu ở một số khu vườn quốc gia (Cát Bà, Cúc Phương, Ba Bể, Nam Cát Tiên, Tam Nông, U Minh...); du lịch thám hiểm, nghiên cứu vùng núi cao như Phanxipăng; du lịch tham quan miệt vườn, sông nước đồng bằng sông Cửu Long; du lịch lặn biển (Hạ Long - Cát Bà, Nha Trang), thám hiểm hang động (Phong Nha)... Thị trường khách của loại hình du lịch sinh thái ở Việt Nam còn rất hạn chế. Phần lớn khách du lịch quốc tế đến các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên là từ các nước Tây Âu, Bắc Mỹ và Úc, còn khách nội địa là sinh viên, học sinh và cán bộ nghiên cứu.

-Về tổ chức khai thác thị trường du lịch sinh thái: thị trường du lịch sinh thái trên phạm vi thế giới và trong nước hiện nay đang phát triển mạnh và là một xu hướng mới. Tuy nhiên, việc tổ chức nghiên cứu thị trường và những giải pháp phát triển du lịch sinh thái còn nhiều hạn chế.


-Về đầu tư phát triển: việc phát triển du lịch sinh thái chủ yếu tập trung vào lĩnh vực đầu tư xây dựng và kinh doanh các khu lưu trú, khách sạn, khu nghỉ dưỡng(Resort). Việc đầu tư và quản lý xây dựng chưa bảo đảm nguyên tắc, cơ sở khoa học của DLST, phù hợp với yêu cầu quy hoạch phát triển DLST dẫn đến tình trạng xây dựng tràn lan, làm huỷ hoại cảnh quan môi trường, trùng lặp hoặc thiếu sản phẩm du lịch đặc thù vùng, miền, công suất khai thác sử dụng thấp, giảm hiệu quả đầu tư. Mặt khác, nhận thức về du lịch sinh thái còn bất cập, thiếu cơ sở pháp luật để tổ chức đầu tư, phát triển và kinh doanh: tiêu chuẩn, quy phạm, phương pháp thiết kế quy hoạch đầu tư phát triển du lịch sinh thái chưa được ban hành; chưa tạo được hành lang pháp lý với những cơ chế phù hợp; cơ chế quản lý hệ sinh thái đặc trưng (vườn quốc gia, các khu bảo tồn thiên nhiên..) đáp ứng yêu cầu hoạt động DLST; việc khai thác tiềm năng sinh thái chưa gắn kết với quy hoạch du lịch sinh thái; sự phối kết hợp giữa các cấp, các ngành trong quản lý phát triển DLST chưa được chặt chẽ. Mâu thuẫn giữa sự tăng trưởng khách và nhu cầu du lịch sinh thái với năng lực đáp ứng của các khu, điểm du lịch, kết cấu hạ tầng và bảo vệ môi trường, sinh thái nhằm đảm bảo sự phát triển hài hoà, bền vững chưa có giải pháp hiệu quả.(Lê Trọng Bình, 2007, Quy hoạch và kiến trúc du lịch sinh thái [9-10]).

Từ các kết quả nghiên cứu ở trên có thể thấy, du lịch sinh thái là hoạt động du lịch mới phát triển một vài thập kỷ gần đây và đang trở thành một xu hướng tích cực để đảm bảo sự phát triển du lịch bền vững gắn liền với việc bảo tồn thiên nhiên và môi trường, các giá trị nhân văn giàu bản sắc văn hóa của mọi dân tộc, thông qua việc giáo dục nhận thức của xã hội, của cộng đồng. Việt Nam là một nước có điều kiện và tiềm năng phát triển du lịch sinh thái với những ưu thế của thiên nhiên nhiệt đới ẩm, địa hình, cảnh quan đa dạng với nhiều hệ sinh thái điển hình khác nhau từ vùng núi cao nguyên đến vùng đồng bằng ven biển và hải đảo. Trên những khu vực cảnh quan này là địa bàn cư trú của hàng chục các dân tộc thiểu số trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam với những phong tục tập quán, nền văn nghệ dân gian đặc sắc. Để đảm bảo sự phát triển bền vững của du lịch nói riêng và công cuộc phát triển kinh tế xã hội của nước ta nói chung, du lịch sinh thái là loại hình cần được


đẩy mạnh phát triển trên cơ sở khai thác hợp lý các thế mạnh tiềm năng của tài nguyên du lịch Việt Nam. Để đẩy mạnh phát triển du lịch sinh thái đòi hỏi phải có sự chỉ đạo, phối kết hợp đồng bộ thể hiện ở 3 lĩnh vực chủ yếu: chủ trương đường lối chính sách của Nhà nước, sự quản lý điều hành của chính quyền các cấp và sự tham gia của cộng đồng dân cư địa phương.

Trong tương lai không xa, với sự nỗ lực phấn đấu của toàn ngành dưới sự đạo của Tổng cục Du lịch theo định hướng mà Đảng và Nhà nước đã chỉ rõ, chắc chắn du lịch sinh thái sẽ là tiền đề để phát triển du lịch bền vững, góp phần đáng kể vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

1.2.1.Tình hình phát triển du lịch sinh thái tại các VQG và khu BTTT ở Việt Nam

Du lịch sinh thái ở các khu rừng đặc dụng ở Việt Nam là khái niệm không còn mới mẻ, với ba phần tư diện tích lãnh thổ của Việt nam là đồi núi với nhiều đỉnh núi cao có khí hậu mát mẻ rất thuận lợi cho du lịch nghỉ dưỡng mùa hè. Những địa điểm nổi tiếng như Sa Pa, Tam Đảo, Ba Vì, Bạch Mã, Bà Nà - Núi Chúa đã được người Pháp khai thác cách đây nửa thế kỷ và hiện còn lưu giữ nhiều tàn tích của các biệt thự cũ. Từ các trung tâm nghỉ dưỡng nay ta có thể thiết kế các đường mòn thiên nhiên với cự ly từ 2 –3 km để kết hợp du lịch sinh thái với các loại hình du lịch khác. Sông, suối, thác, ghềnh, hồ tự nhiên và nhân tạo trong các khu bảo tồn thiên nhiên ở các vùng núi rất thuận lợi cho việc phát triển loại hình du lịch mạo hiểm và du lịch thể thao dưới nước.

Vườn quốc gia Cúc Phương là khu bảo tồn thiên nhiên đầu tiên được thành lập vào năm 1962 thực hiện tổ chức hoạt động du lịch sinh thái và đã phát huy được hiệu quả của loại hình du lịch này trong việc bảo vệ rừng, bảo vệ đa dạng sinh học, nâng cao nhận thức và mức sống của người dân địa phương. Đến năm 2008, hệ thống khu bảo tồn thiên nhiên của Việt Nam gồm 164 khu rừng đặc dụng (bao gồm 30 Vườn quốc gia, 69 khu dự trữ thiên nhiên, 45 khu bảo vệ cảnh quan, 20 khu nghiên cứu thực nghiệm khoa học) và 03 khu bảo tồn biển chứa đựng các hệ sinh thái, cảnh quan đặc trưng với giá trị đa dạng sinh học tiêu biểu cho hệ sinh thái trên cạn, đất ngập nước và trên biển.

Xem tất cả 128 trang.

Ngày đăng: 29/04/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí