Đường Hồ Chí Minh Khu Vực Miền Trung

Biến trình mực nước lũ trên sông Hương trong khoảng thời gian từ 1990 - 2010 không có biến động nhiều. Chỉ có năm 1999 do ảnh hưởng của mưa bão nên trên sông Hương có lũ lớn với mực nước dâng cực đại là 581cm (trên báo động cấp 3 là 231cm). Dự báo trong khoảng 50 năm tới mức nước lũ cực đại khoảng 337cm, mức nước giờ lũ trung bình khoảng 193cm (xấp xỉ mức báo động cấp 2). Nếu trong thời gian lũ kết hợp với bão hoặc triều cường thì ảnh hưởng của nước dâng sẽ tác động mạnh mẽ đến toàn bộ lưu vực cửa Thuận An, Phá Tam Giang. Điều này cũng ảnh hưởng trực tiếp đến QL49B.

Nước dâng là hiện tượng mực nước biển dâng cao hơn mức thuỷ triều bình thường. Tuỳ theo cường độ của bão, nước dâng có thể gây thiệt hại ở vùng thấp ven biển. Ở khu vực Thừa Thiên Huế, nước dâng đã quan sát trong cơn bão CECIL 1985 ở Thuận An 1,9m, ở Lăng Cô 1,7m và khoảng 1,0m trong cơn bão Yangsane 2006. Nước dâng kết hợp triều cường làm mực nước biển cao 3-4m, tràn vào đất liền 2- 3km. Theo tính toán của Trương Đình Hiển [Báo cáo nghiên cứu, khảo sát lập dự án chọn địa điểm cảng biển nước sâu và khu công nghiệp Chân Mây tỉnh Thừa Thiên Huế, 1995], trong chu kỳ khoảng 100 năm có khả năng xảy ra nước dâng ở khu vực ven biển Thừa Thiên Huế với độ cao 2,0m [Nguyễn Việt, Thiên tai ở Thừa Thiên Huế và các biện pháp phòng tránh tổng hợp, 2007]. Còn theo kịch bản BĐKH mức phát thải trung bình của Bộ TN&MT năm 2012 thì khu vực từ Đèo Ngang đến Đèo Hải Vân mực nước biển dâng trong vòng 100 năm tới khoảng từ 60 - 71cm.

(iv) Biểu hiện của các hiện tượng khí hậu cực đoan ở Thừa Thiên Huế

a)Lũ lụt

Lịch sữ đã ghi nhận: Trong thế kỷ XIX từ năm 1801-1888 ở kinh thành Huế và vùng phụ cận phải hứng chịu 40 trận lũ lớn [Lịch sử KTTV Việt Nam, phần biên niên cổ đại, trung đại, cận đại, 1995], có thể kể một số trận điển hình sau đây:

- Trận lũ năm 1811 đã tràn ngập Hoàng Cung 3,36m, phá vỡ cửa Tư Hiền.

- Năm 1818 lũ làm kinh thành Huế ngập sâu 4,2m.

- Các trận lũ liên tiếp trong hai năm 1841-1842 làm hơn 700 ngôi nhà bị sập đổ, lăng Minh Mạng bị hư hại nặng, số lượng người chết rất nhiều.

- Trận lũ tháng X năm 1844 đã làm thiệt mạng hơn 1000 người, 2000 ngôi nhà bị phá huỷ hoàn toàn, cột cờ ở kỳ đài bị gãy, kinh thành huế ngập sâu 4,2m.

- Nhiều trận lũ tiếp theo vào các năm 1848 và 1856 phá huỷ hơn 1000 ngôi nhà ở Huế, 2/3 Ngọ Môn bị sup đổ.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 156 trang tài liệu này.

Bước sang thế kỷ XX, Thừa Thiên Huế đã nhiều lần bị lũ tàn phá, đáng chú ý là các trận lũ sau:

- Trận lũ từ 20-26/IX/1953 làm 500 người thiệt mạng, 1290 ngôi nhà bị trôi, 300 trâu, bò bị chết hoặc bị cuốn trôi, 80% diện tích hoa màu bị mất trắng. Tại kinh thành Huế lũ đã phá đổ cửa Quảng Đức (sau này gọi là cửa sập).

Nghiên cứu đánh giá tác động của biến đổi khí hậu đối với đường quốc lộ khu vực miền Trung - 7

- Sau ngày mới giải phóng một trận lũ lớn đã xảy ra ở Thừa Thiên Huế từ ngày 15-20/X/1975 gây thiệt hại lớn về tính mạng và tài sản của nhân dân.

- Từ ngày 28/X đến 1/XI/1983 một trận lũ lớn ở Thừa Thiên Huế đã làm 252 người bị chết,115 người bị thương, 2100 ngôi nhà bị sập, 1511 ngôi nhà bị trôi, 2566 con trâu bò và 20.000 con lợn bị trôi.

- Trong trận lũ lịch sử đầu tháng XI/1999 có 352 người chết, 21 người mất tích, 99 người bị thương. Số nhà bị đổ, bị cuốn trôi là 25.015 cái,1.027 trường học bị sụp đổ, 160.537 gia súc bị chết, gia cầm bị chết lên tới 879.676 con. Tổng thiệt hại 1.761,82 tỷ đồng.

- Ngay đầu thế kỷ XXI, một trận lũ khá lớn xảy ra từ ngày 25-27/XI/2004 làm 10 người chết, thiệt hại hơn 208 tỷ đồng.

- Nguyên nhân hình thành lũ ở Thừa Thiên Huế là do mưa lớn gây ra bởi các hình thế thời tiết: không khí lạnh, bão và ATNĐ, hội tụ nhiệt đới, đới gió đông trên cao và tổ hợp gữa chúng.

Lũ, lụt ở Thừa Thiên Huế có những đặc điểm sau đây:

- Mùa lũ: Phù hợp với mùa mưa, mùa lũ chính vụ kéo dài từ tháng X đến tháng XII hàng năm.Tổng lượng dòng chảy trong mùa mưa lũ chiếm 65% tổng lượng dòng chảy năm. Ngoài lũ chính vụ còn xuất hiện lũ tiểu mãn trong tháng V, tháng VI và lũ sớm trong tháng VIII, Tháng IX, lũ muộn trong tháng I.

- Số trận lũ: Theo số liệu quan trắc từ 1977-2006 trên sông Hương, trung bình hàng năm có 3,5 trận lũ lớn hơn hoặc bằng mức báo động II, năm nhiều nhất có 7 trận,

năm ít nhất có 1 trận, trong đó có 36% lũ lớn và đặc biệt lớn. Những năm có hiện tượng La Nina số đợt lũ và đỉnh lũ lớn hơn rò rệt.

- Thời gian kéo dài: Phụ thuộc vào tình hình mưa và thuỷ triều, thời gian kéo dài trung bình của một đợt lũ khoảng 3-5 ngày, dài nhất 6-7 ngày.

- Thời gian truyền lũ: trung bình 5-6 giờ với khoảng cách 51 km từ thượng nguồn (Thượng Nhật) đến hạ lưu (Kim Long).

- Biên độ lũ, cường suất lũ: phụ thuộc vào lượng mưa và cường độ mưa và hình dạng mặt cắt sông. Biên độ lũ giao động troảng 3-5m, cường suất lũ lớn nhất ở vùng núi khoảng 1-2m/h, ở vùng đồng bằng từ 0,5-1m/h.

- Lưu lượng lũ: Lưu lượng của trận lũ 1953 là 12.500m3/s và trận lũ đầu tháng XI/1999 là 14.000m3/s. Tổng lượng nước trên toàn bộ các sông đổ xuống hạ lưu từ ngày 1-6/XI/1999 là khoảng 307 tỷ m3 làm 90% lãnh thổ vùng đồng bằng ngập sâu trong nước từ 1-4m.

Lũ lụt là thiên tai cực kỳ nguy hiểm có cường suất lớn, sức tàn phá ác liệt, hàng năm gây nhiều thiệt hại cho Thừa Thiên Huế [Nguyễn Việt, Thiên tai ở Thừa Thiên Huế và các biện pháp phòng tránh tổng hợp, 2007].

b) Bão và áp thấp nhiệt đới

Bão và ATNĐ là những thiên tai xuất hiện ở Thừa Thiên Huế không nhiều, trung bình hàng năm chỉ 0,6 cơn nhưng gây ra hậu quả nghiêm trọng phải mất nhiều năm mới khắc phục được. Trong chuỗi số liệu lịch sữ đã ghi nhận những trận bão sau đây:

- Ngày 19/XI/1904 một cơn bão mạnh đã tràn qua kinh thành Huế làm sập 4 nhịp cầu Tràng Tiền, làm đổ 22.027 ngôi nhà, 529 tàu thuyền bị đắm, 724 người chết.

- Bão CECIL đổ bộ vào Vĩnh Linh (Quảng Trị) ngày 16/X/1985 với sức gió cấp 13 đã gây thiệt hại cho hai tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên Huế. Nó đã làm đổ

214.000 ngôi nhà, 2000 phòng học, 200 cơ sở y tế, 600 cột điện cao thế, hàng nghìn tàu thuyền bị đắm, 840 người bị chết, 100 người mất tích, 200 người bị thương. Đây là cơn bão trong 100 năm mới xảy ra một lần.

- Ngày 18/X/1990 một cơn bão có tên là ED đã ảnh hưởng đến Thừa Thiên Huế với tốc độ gió 100km/giờ đã làm 18 người chết và thiệt hại tài sản 56,540 tỷ đồng.

- Bão Xangsane đổ bộ vào Đà Nẵng ngày 1/X/2006 gây ra gió cấp 10, 11 ở các huyện phía nam Thừa Thiên Huế và ngập lụt trên toàn tỉnh với tổng thiệt hại lên tới 2.910 tỷ đồng và 10 người chết.

- Bão Wutip đổ bộ vào Quảng Trị ngày 30/IX/2013 gây ra gió ở tâm bão cấp 12 -13, giật cấp 15 -16. Vùng ven biển Huế bị ảnh hưởng bởi bão có gió mạnh cấp 7-8, sóng biển dâng cao 2m, rất nhiều cây xanh và nhà bị đổ hoặc tốc mái (250 căn), gần 2.000 người phải sơ tán khẩn cấp.

- Bão Nari với sức gió giật cấp 12 đổ bộ vào Đà Nẵng ngày 15/X/2013 làm 117 người thiệt mạng, hơn 11.000 ngôi nhà bị ngập, tốc mái. Trên QL49B nhiều đoạn bị ngập sâu không lưu thông được.

Theo số liệu theo dòi bão từ 1952 đến 2005 (54 năm) đã có 32 cơn bão và ATNĐ ảnh hưởng đến Thừa Thiên Huế, trong đó có 5 cơn bão mạnh và rất mạnh chiếm tỷ lệ 9,4%, gồm có bão ngày 30/X/1952 vào Huế sức gió cấp 12 (122km/giờ), bão BABS ngày 16/IX/1962: cấp 12(118km/giờ), bão TILDA ngày 22/IX cấp 13 (137km/giờ), bão PATSY ngày 15/X/1973 cấp 11 (104km/giờ) và bão CECIL ngày 16/X/1985 cấp 11 (104km/giờ).

c) Hạn hán

Hạn, xâm nhập mặn là những hiện tượng thường xảy ra hàng năm, nhất là trong những năm có hiện tượng El Nino ở Thừa Thiên Huế.Tuy không gây ra chết người nhưng nó ảnh hưởng nghiêm trọng tới các ngành dân sinh, kinh tế như: nông nghiệp, công nghiệp, môi trường và sức khoẻ. Khoảng cách lớn nhất mà độ mặn xâm nhập vào sông Hương quan trắc được là khoảng 30km. Xâm nhập mặn gây hậu quả tiêu cực đến sản xuất nông nghiệp và môi trường sinh thái ở vùng đất thấp ven sông Hương, sông Bồ. Diện tích bị ảnh hưởng khoảng 2.000-2.500 ha [Nghiên cứu phương án phục hồi, thích nghi cho vùng cửa sông ven biển Thuận An-Tư Hiền và đầm phá Tam Giang-Cầu Hai].

d) Lốc, tố

Lốc, tố là những thiên tai thường xảy ra ở Thừa Thiên Huế. Mặc dù phạm vi ảnh hưởng không rộng như bão nhưng sức gió trong lốc rất mạnh, đôi khi kèm theo mưa đá, gây thiệt hại đáng kể cho địa phương. Trong những năm gần đây số cơn lốc

xảy ra trên địa bàn Thừa Thiên Huế ngày càng gia tăng, nhất là vào những năm có hiện tượng El Nino như 1993, 1997, 2002. Từ năm 1993 đến nay trung bình hàng năm có khoảng 4 cơn lốc. Đáng chú ý là cơn lốc ngày 25/IX/1997 với sức gió cấp 10 qua huyện Phú Vang và thành phố Huế làm thiệt hại 8 tỷ đồng. Gần đây hai cơn lốc mạnh cấp 10 xảy vào ngày 27/III và ngày 28/IV/2005 tại hai huyện Nam Đông Và A Lưới để lại thiệt hại hơn 2 tỷ đồng. Thời gian xuất hiện của lốc tố thường vào thời kỳ chuyển mùa: tháng IV, tháng V và tháng VIII, tháng IX và có thể xuất hiện nhiều vùng trên địa bàn của tỉnh. Cơn lốc mạnh nhất đã quan sát được ở Thừa Thiên Huế là 144km/giờ (cấp 13) vào ngày 7/IV/1981 ở A Lưới kèm theo mưa đá có đường kính lớn nhất là 5cm.

e) Lũ quét

Theo số liệu khảo sát, trên địa bàn Thừa Thiên Huế đã có 48 điểm xảy ra lũ quét với các loại hình sau: lũ quét nghẽn dòng, lũ quét hổn hợp. Lũ quét nghẽn dòng thường xảy ra ở những vùng trũng giữa núi như: Hồng Kim (A Lưới), Xuân Lộc (Phú Lộc), La Hy (Nam Đông), Khe Trái (Hương Trà). Lũ quét nghẽn dòng còn xảy tại những công trình giao thông có khẩu độ thoát lũ kém như tại Cống Bạc ( trên quốc lộ 1A qua T.p Huế). Lũ quét hổn hợp thường xảy ra nơi hợp lưu của hai con sông như Bảng Lảng, Hương Hồ (Sông Hương), Lại Bằng (sông Bồ). Trong trận lũ 1953 và 1999 hai làng Bảng Lảng và Lại Bằng đã bị cuốn trôi. Tần suất xảy ra lũ quét ở Thừa Thiên Huế không lớn nhưng gây nhiều thiệt hại về tính mạng và tài sản của nhân dân.

f) Trượt lở đất

Trượt lở đất ở Thừa Thiên Huế chủ yếu xảy ra ở vùng đồi núi có độ dốc từ 30

- 35 độ dọc theo quốc lộ 1A như đèo Phước Tượng, đèo Phú Gia, đèo Hải Vân, ở các huyện A Lưới, Nam Đông, Phú Lộc và dọc theo đường Hồ Chí Minh, đường 49A. Trên đường 49A tại xã Hồng Tiến (Hương Trà) đã từng xảy ra một vụ trượt đất cực lớn vào ngày 21/XI/1999 với khối lượng đất đá lên đến 20.000m3 nhưng rất may là không có thiệt hại đáng kể. Tại mũi Né ( Phú Lộc) trong đợt lũ đầu tháng XI/1999 đã xảy ra trượt đất làm 13 người chết.

Theo điều tra sơ bộ toàn tỉnh có 15 vị trí trượt đất Trên sông Hương, Sông Bồ, sông Truồi có rất nhiều điểm sạt lỡ bờ sông. Những điểm sạt lỡ nghiêm trọng là những nơi thường xảy ra lũ quét như Bảng Lảng, Dương Hoà, Hương Hồ, Hương Thọ. Hầu như năm nào cũng có sạt lỡ và số điểm sạt lở ngày càng gia tăng.

g) Xói lở bờ biển

Hiện tượng xói lở bờ biển Thừa Thiên Huế diễn ra thường xuyên và phức tạp, đặc biệt tại khu vực Thuận An- Hòa Duân và cửa Tư Hiền.

Vùng biển Hải Dương-Thuận An-Hòa Duân trong 10 năm trở lại đây bị xâm thực và sạt lở nặng nề. Bình quân hàng năm biển lấn sâu vào đất liền khoảng 5- 10m, có nơi 30m. Sau trận lũ lịch sử tháng 11/1999 sạt lở diễn ra nghiêm trọng, khu vực Hải Dương-Hòa Duân biển xâm thực sâu hơn 100m làm hư hại cac công trình hạ tầng cơ sở nhà nước và nhân dân như: làm sập đổ đền hải đăng, hàng loạt nhà nhà nghỉ bải tắm Thuận An. Tổng chiều dài bị xâm thực 4km, đe dọa đến tính mạng và tài sản của hơn 1.000 hộ dân trong khu vực.

Theo tổng kết của Trần Hữu Tuyên [Động lực và xu thế bồi xói bờ biển, cửa sông dải ven biển Tư Hiền, 2006], cửa Tư Hiền được mở trở lại sau trận lũ lịch sử tháng 11/1999, gây ra những biến động bồi xói cục bộ diễn ra mạnh mẽ. Trong giai đoạn từ năm 2000-2001, tại thôn Phú An, xã Vinh Hiền, xói lở diễn ra trên chiều dài 440m, diện tích sạt lở là 0,76ha và tốc độ xói trung bình khoảng 17m/năm. Đoạn bờ đối diện với đoạn bờ thôn Phú An qua lạch cửa Tư Hiền cũng bị xói sạt, diện tích là 0,5ha, chiều dài 200m, tốc độ xói trung bình là 25m/năm.

Cửa Tư Hiền và cửa Lộc Thủy liên tục bị bồi xói và đóng mở. Cửa Tư Hiền bị thu hẹp đáng kể và cửa Lộc Thủy bị bồi lấp hoàn toàn tháng 5/2004.

3.2. Đường Hồ Chí Minh khu vực Miền Trung


(i) Nhiệt độ

1. Nhiệt độ trạm Thanh Hóa

Từ số liệu thống kê ta có thể thấy các chỉ số về nhiệt độ trung bình tháng 6, nhiệt độ cao nhất tháng 6, nhiệt độ thấp nhất tháng 6 trong năm của trạm Thanh Hóa có sự gia tăng đáng kể theo thời gian, cụ thể như sau:


Hình 3.11. Biến trình nhiệt độ trung bình tháng 6 trạm Thanh Hóa


Hình 3.12. Biến trình nhiệt độ cao nhất tháng 6 trạm Thanh Hóa


Hình.3.13. Biến trình nhiệt độ cao nhất tháng 6 trạm Thanh Hóa


Hình. 3.14. Biến trình nhiệt độ thấp nhất tháng 1 trạm Thanh Hóa


Nguồn: Trung tâm tư liệu Khí tượng Thủy văn Quốc gia

Như vậy sự thay đổi về nhiệt độ tại khu vực trạm Thanh Hóa theo dự báo từ số liệu thống kê như sau:

- Nhiệt độ trung bình tháng cao nhất trong năm (tháng 6) trong vòng 100 năm tới có thể sẽ tăng 2,60C so với mức trung bình thời đoạn 1991 - 2010.

- Nhiệt độ cao nhất trong năm (tháng 6) trong vòng 100 năm tới có thể sẽ tăng 2,30C so với mức trung bình thời đoạn 1991 - 2010.

- Nhiệt độ thấp nhất trong năm (tháng 1) trong vòng 100 năm tới có thể sẽ giảm 0,60C so với mức trung bình thời đoạn 1991 - 2010.

- Chênh lệch nhiệt độ trong ngày có xu hướng giảm dần trong khi chênh lệch nhiệt độ giữa tháng thấp nhất và cao nhất tăng. Đây chính là một trong những biểu hiện quan trọng của BDKH tác động tới con người, hệ động thực vật và môi trường vô sinh xung quanh bao gồm các yếu tố kỹ thuật đối với ngành GTVT đường bộ.

2. Nhiệt độ trạm Tây Hiếu

Nhiệt độ trung bình tháng 7, nhiệt độ cao nhất tháng 7, nhiệt độ thấp nhất tháng 7 trong năm của trạm Tây Hiếu có xu hướng tăng theo thời gian, cụ thể như sau:


Hình. 3.15. Biến trình nhiệt độ trung bình tháng 7 các năm trạm Tây Hiếu



Hình. 3.16. Biến trình nhiệt độ cao nhất tháng 7 các năm trạm Tây Hiếu


Hình. 3.17. Biến trình nhiệt độ thấp nhất tháng 7 các năm trạm Tây Hiếu

Xem tất cả 156 trang.

Ngày đăng: 15/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí