Doanh Nghiệp Niêm Yết Trên Thị Trường Chứng Khoán


đảo trong các giao dịch mua bán tại TTCK. Đến nay, TTCK trở thành một thị trường tài chính bậc cao, phát triển mạnh và luôn có sức hấp dẫn đối với các NĐT ở cả các quốc gia đang phát triển và đã phát triển.

1.1.1.2. Khái niệm thị trường chứng khoán

Xét mối quan hệ trong thị trường tài chính, TTCK là một phần của thị trường tài chính. Thị trường tài chính gồm Thị trường tài chính ngắn hạn (thị trường tiền tệ) và Thị trường tài chính dài hạn (thị trường vốn), trong đó thị trường tài chính dài hạn bao gồm thị trường tín dụng dài hạn, thị trường cầm cố và TTCK.

Theo Từ điển tiếng Anh kinh tế (1985), TTCK là một thị trường có tổ chức, là nơi các chứng khoán được mua bán tuân theo các qui tắc đã được ấn định.

Theo Luật Chứng Khoán của Việt Nam, Số 70/2006/QH11 và Luật bổ sung sửa đổi số 62/2010/QH12, thị trường giao dịch chứng khoán là địa điểm hoặc hình thức trao đổi thông tin để tập hợp lệnh mua, bán và giao dịch chứng khoán [55].

TTCK là một thị trường có tổ chức, nơi diễn ra các hoạt động mua bán các loại chứng khoán được niêm yết trên thị trường [40].

TTCK là thị trường tài chính bậc cao, nơi mà các NĐT (người mua/bán chứng khoán) luôn cần có các thông tin tài chính minh bạch để ra các quyết định kinh tế của mình và họ có thể chịu thiệt hại rất nặng nề nếu như các thông tin tài chính mà họ dựa vào đó để ra quyết định không đảm bảo độ tin cậy.

1.1.1.3. Chức năng của thị trường chứng khoán

Chức năng của TTCK thể hiện vai trò của TTCK đối với nền kinh tế, cụ thể:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 225 trang tài liệu này.

- Huy động vốn: Thông qua TTCK, các công ty, tổ chức kinh tế, Chính phủ có thể phát hành các cổ phiếu (stock), trái phiếu (bond), gọi chung là chứng khoán, để huy động vốn đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh và đầu tư.

- Khuyến khích tiết kiệm và đầu tư: Đầu tư vào các cổ phiếu, trái phiếu, mặc dù chịu nhiều rủi ro hơn, nhưng có khả năng sinh lời nhiều hơn không chỉ nhờ vào lãi suất mà vào việc mua/bán lại các cổ phiếu, trái phiếu này trên TTCK, qua đó khuyến khích tiết kiệm và đầu tư nhiều hơn.

Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng kiểm toán báo cáo tài chính các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam - 4

- Công cụ di chuyển đầu tư: Sức hấp dẫn nhất của TTCK chính là giúp NĐT di chuyển vốn đầu tư một cách dễ dàng thông qua việc quyết định mua hoặc bán một loại chứng khoán nào đó trên thị trường, đồng thời có thể nhanh chóng chuyển đổi thành tiền mặt (tính thanh khoản cao) nếu cần.


- Khuyến khích cạnh tranh: Giá cổ phiếu và trái phiếu của một công ty có thể lên hoặc xuống tùy vào cung cầu thị trường. Điều này thúc đẩy các công ty có chứng khoán niêm yết phải nỗ lực kinh doanh hiệu quả, liên tục đổi mới công nghệ, phát triển thương hiệu để chứng khoán của công ty hấp dẫn các NĐT.

- Phản ánh sức khỏe của nền kinh tế: Chỉ số chứng khoán phản ánh giá chứng khoán, được coi là phản ánh sức khỏe của nền kinh tế, cũng như của mỗi ngành, mỗi doanh nghiệp.

- Công cụ hội nhập vào nền kinh tế thế giới: Nhờ vào công cụ di chuyển vốn dễ dàng, TTCK là công cụ để các nền kinh tế đang phát triển hội nhập nhanh chóng với nền kinh tế thế giới.

Để các chức năng của TTCK phát huy tác dụng, các nhà quản lý yêu cầu các thông tin được công bố trên TTCK, trong đó là các BCTC của DNNY phải được cung cấp kịp thời, bảo đảm tính minh mạch và độ tin cậy cao.

1.1.1.4. Phân loại thị trường chứng khoán

Căn cứ vào các tiêu chí khác nhau, TTCK được phân loại khác nhau. Cụ thể:

- Căn cứ vào quá trình lưu thông chứng khoán, TTCK bao gồm thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. Thị trường sơ cấp là nơi chứng khoán được phát hành lần đầu ra công chúng, thị trường thứ cấp là nơi các chứng khoán được mua bán lại.

- Căn cứ vào phương thức giao dịch, TTCK bao gồm thị trường tập trung và thị trường phi tập trung. Thị trường tập trung là thị trường chính thức, có tổ chức, trong đó các chứng khoán được niêm yết và giao dịch mua bán tại một nơi gọi là Sở GDCK hay Trung tâm GDCK.

- Căn cứ vào kỳ hạn giao dịch, TTCK bao gồm thị trường trao ngay, thị trường giao dịch kỳ hạn và thị trường giao dịch tương lai.

1.1.1.5. Đặc điểm của thị trường chứng khoán

- Đặc trưng của TTCK là hình thức tài chính trực tiếp, người cần vốn và người cung cấp vốn đều trực tiếp tham gia thị trường, giữa họ không có trung gian tài chính;


- Là thị trường gần với thị trường cạnh tranh hoàn hảo. Mọi người đều tự do tham gia vào thị trường. Không có sự áp đặt giá cả trên TTCK, giá cả được hình thành dựa trên quan hệ cung- cầu;

- Về cơ bản là một thị trường liên tục, sau khi các chứng khoán được phát hành trên thị trường sơ cấp, nó có thể được mua đi bán lại nhiều lần trên thị trường thứ cấp. TTCK đảm bảo cho các NĐT có thể chuyển chứng khoán của họ thành tiền mặt bất cứ lúc nào họ muốn.

Những đặc điểm này của TTCK đã tạo nên tính hấp dẫn của thị trường và thu hút cộng đồng các NĐT cá nhân cũng như tổ chức, tuy nhiên, tính minh bạch của thông tin trên TTCK, trong đó cần vai trò của kiểm toán đối với độ tin cậy của thông tin, là một vấn đề được quan tâm hàng đầu góp phần bảo vệ NĐT.

1.1.1.6. Các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán

Trên TTCK, các chủ thể chính tham gia thị trường thường gồm: Ủy ban Chứng khoán Quốc gia; Sở giao dịch chứng khoán; các tổ chức phát hành; tổ chức niêm yết chứng khoán; các NĐT chứng khoán; các định chế tài chính trung gian.

Các tổ chức phát hành chứng khoán tiến hành chào bán chứng khoán lần đầu qua thị trường sơ cấp nhằm tăng vốn phục vụ cho việc tài trợ các dự án, mục tiêu hoạt động của tổ chức phát hành. Tổ chức phát hành chứng khoán có thể gồm: Chính phủ- phát hành tín phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc, trái phiếu đầu tư; chính quyền địa phương- phát hành trái phiếu để tài trợ cho các dự án, nhu cầu chi tiêu của chính quyền địa phương; các công ty cổ phần- phát hành cổ phiếu và trái phiếu công ty; các doanh nghiệp nhà nước và công ty TNHH- phát hành trái phiếu doanh nghiệp; các quĩ đầu tư chứng khoán và công ty quản lý quĩ- phát hành chứng chỉ đầu tư.

Sau khi chứng khoán của các tổ chức phát hành được chào bán lần đầu trên TTCK sơ cấp, sẽ được các NĐT giao dịch, mua bán lại trên TTCK thứ cấp. Khi các tổ chức phát hành tiến hành niêm yết chứng khoán là việc công bố chứng khoán đủ tiêu chuẩn giao dịch tại thị trường chính thức (sở GDCK hoặc trung tâm GDCK). Tổ chức niêm yết là tổ chức phát hành có chứng khoán được niêm yết trên TTCK.


Tổ chức phát hành, tổ chức niêm yết và NĐT được coi là những chủ thể tạo nên sự sôi động của TTCK. Trong đó, các công ty cổ phần là tổ chức phát hành và tổ chức niêm yết quan trọng, tạo ra nguồn hàng hóa (cổ phiếu, trái phiếu) có khối lượng giao dịch áp đảo trên thị trường.

1.1.2. Doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán

1.1.2.1. Khái niệm doanh nghiệp niêm yết

DNNY thực chất là các công ty cổ phần có chứng khoán (cổ phiếu và trái phiếu) được niêm yết trên thị trường chứng khoán (gồm sở GDCK hoặc trung tâm GDCK). Để làm rõ khái niệm DNNY, có thể xét các khía cạnh sau:

Xét từ các chủ thể tham gia TTCK, DNNY trước hết là tổ chức phát hành và có chứng khoán (bao gồm cổ phiếu và trái phiếu) được niêm yết trên thị trường chứng khoán. Dưới góc nhìn này, DNNY thực chất là công ty cổ phần với tư cách là tổ chức niêm yết. DNNY không bao hàm nói tới các tổ chức phát hành có chứng khoán niêm yết khác như chính phủ (niêm yết tín phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc, trái phiếu đầu tư); chính quyền địa phương (niêm yết trái phiếu địa phương); các doanh nghiệp Nhà nước và công ty TNHH (niêm yết trái phiếu doanh nghiệp); các quĩ đầu tư chứng khoán và công ty quản lý quĩ (niêm yết chứng chỉ đầu tư).

Để trở thành doanh nghiệp niêm yết trên TTCK phải đáp ứng các tiêu chuẩn định tính và định lượng theo qui định của từng sở hoặc trung tâm giao dịch. Các tiêu chuẩn định tính như: Triển vọng phát triển, tính khả thi của phương án sử dụng vốn từ đợt phát hành, ý kiến của KTV về BCTC của doanh nghiệp, việc thực hiện công bố thông tin. Các tiêu chuẩn định lượng có thể gồm: Thời gian hoạt động, quy mô vốn, hiệu quả hoạt động...

Xét các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế, DNNY là loại hình công ty cổ phần. Ở Việt Nam, theo Luật Doanh nghiệp, có đa dạng các loại hình doanh nghiệp gồm công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân (đều được gọi chung là doanh nghiệp) [55]. Sơ đồ 1.2 cho


Công ty hợp danh

Loại hình Doanh nghiệp

(Theo Luật Doanh nghiệp của Việt Nam năm 2005)

Công ty cổ phần

Công ty TNHH

Công ty hợp danh

Doanh nghiệp tư nhân

thấy, khi doanh nghiệp là công ty cổ phần đại chúng và có chứng khoán được niêm yết trên TTCK thì được gọi là doanh nghiệp niêm yết hay công ty cổ phần niêm yết.



Công ty cổ phần đại chúng:

(là công ty cổ phần thuộc một trong ba loại hình sau đây:

- Công ty đã thực hiện chào bán cổ phiếu ra công chúng;

- Công ty có cổ phiếu được niêm yết tại SGDCK hoặc Trung tâm GDCK,

- Công ty có cổ phiếu được ít nhất một trăm NĐT sở hữu, không kể NĐT chứng khoán chuyên nghiệp; và có vốn điều lệ đã góp từ 10 tỷ đồng trở lên.

Công ty cổ phần chưa đại chúng

Công ty cổ phần niêm yết

- Là công ty cổ phần đại chúng

- Có cổ phiếu đủ điều kiện niêm yết, giao dịch trên TTCK

Công ty cổ phần không niêm yết


Sơ đồ 1.2: Các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế

Dưới góc nhìn kiểm toán, DNNY là đơn vị có lợi ích công chúng. Theo quy định của Luật Giám sát các CTKT của Hà Lan (năm 2006), các đơn vị có lợi ích công chúng có quy mô hoặc chức năng hoạt động trong xã hội mà việc thực hiện kiểm toán theo luật định không đúng đắn đối với BCTC của các đơn vị này có ảnh hưởng nghiêm trọng đến lòng tin của công chúng đối với báo cáo kiểm toán [48].

Tại Việt Nam, theo Điều 53, Luật Kiểm toán độc lập, đơn vị có lợi ích công chúng gồm: (1) Tổ chức tín dụng được thành lập và hoạt động theo Luật các tổ chức


tín dụng; (2) Tổ chức tài chính, doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm; (3) Công ty đại chúng, tổ chức phát hành, tổ chức kinh doanh chứng khoán theo quy định của pháp luật về chứng khoán [56].

Qua việc phân tích trên cho thấy, DNNY là tổ chức niêm yết trên TTCK, là công ty cổ phần (thuộc đơn vị có lợi ích công chúng) có đủ điều kiện về vốn, hoạt động kinh doanh, khả năng tài chính, số cổ đông hoặc số người sở hữu chứng khoán và được niêm yết trên TTCK (Sở GDCK hoặc Trung tâm GDCK).

1.1.2.2. Đặc điểm của doanh nghiệp niêm yết

Xét trên góc độ kiểm toán và góc nhìn của NĐT đối với DNNY, đặc điểm cơ bản của DNNY gồm:

- Là loại hình công ty cổ phần, cổ phiếu và trái phiếu của doanh nghiệp được niêm yết trên TTCK, được quyền phát hành chứng khoán khi có nhu cầu tăng vốn: Công ty cổ phần có đặc trưng là sự tách rời giữa người sở hữu vốn (cổ đông) và người quản lý. Điều này, xét trên góc độ kiểm toán, có thể có sự không tin cậy từ các báo cáo (trong đó có thông tin tài chính) của các nhà quản lý do mâu thuẫn lợi ích giữa các cổ đông và ban lãnh đạo DNNY, hoặc giữa nhóm cổ đông lớn và các cổ đông nhỏ [31]. Doanh nghiệp niêm yết còn bao gồm doanh nghiệp Nhà nước đã cổ phần hóa, Nhà nước chiếm tỷ lệ cổ phần chi phối trên 50% (theo Luật Doanh nghiệp Việt Nam, 2005). Bên cạnh đó, DNNY được quyền phát hành chứng khoán nhằm tăng vốn dưới hai dạng là cổ phiếu, trái phiếu ra công chúng nếu đáp ứng các yêu cầu. Công chúng ở đây chính là các NĐT- những người quyết định đầu tư/không tiếp tục đầu tư vào DNNY thông qua các quyết định mua/bán cổ phiếu hoặc sở hữu trái phiếu công ty. Các quyết định của NĐT đối với cổ phiếu của DNNY chủ yếu dựa trên thông tin do chính DNNY cung cấp theo luật định.

- Cổ phiếu của DNNY được sở hữu bởi số lượng lớn cổ đông và liên tục có sự biến động tùy thuộc vào quyết định của các NĐT vào cổ phiếu của DNNY: Đây là đặc trưng cơ bản của DNNY so với doanh nghiệp không niêm yết, theo đó, số lượng và trình độ cổ đông của các DNNY là rất lớn, phức tạp, có lợi ích trực tiếp và quan tâm sâu tới kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Đặc điểm cổ đông của DNNY cũng khá đa dạng bao gồm cả tổ chức, cá nhân nước ngoài, cổ đông đại diện cho phần vốn của nhà nước. Bên cạnh sự quan tâm của các cổ đông,


DNNY cũng nhận được sự quan tâm của nhiều đối tượng như đối với doanh nghiệp nói chung bao gồm nhà quản lý, ngân hàng, khách hàng, nhà cung cấp, các chuyên gia.

- DNNY thường có qui mô lớn và phạm vi hoạt động rộng khắp: Mục đích chính của doanh nghiệp khi lựa chọn con đường niêm yết là nhằm đáp ứng nhu cầu mở rộng vốn kinh doanh trên qui mô lớn thông qua thu hút vốn dài hạn từ các NĐT, bên cạnh đó còn nhằm khẳng định thương hiệu và uy tín, do vậy DNNY thường là các doanh nghiệp có qui mô lớn, phạm vi hoạt động rộng và có các mối quan hệ tài chính phức tạp hơn so với các doanh nghiệp không niêm yết.

- DNNY thường hoạt động kinh doanh đa ngành nghề, tính chất phức tạp, nhất là những ngành nghề nhiều rủi ro như đầu tư tài chính, ngân hàng, bất động sản, xây dựng, sản xuất.

- Hoạt động của DNNY được quản lý chặt chẽ bởi nhiều hệ thống pháp luật trong và ngoài doanh nghiệp như Luật Doanh nghiệp (dành cho công ty cổ phần, kể cả đối với công ty cổ phần mà Nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối trên 50%), Luật Chứng khoán, Luật Kiểm toán độc lập (kiểm toán BCTC theo qui định) và các văn bản pháp luật liên quan khác, trong đó yêu cầu cao về tính minh bạch trong hoạt động và chịu sự qui định chặt chẽ việc công khai các thông tin trên BCTC.

Các đặc điểm trên đây của DNNY sẽ chi phối đến đặc điểm BCTC của DNNY- thông tin tài chính nhận được sự quan tâm đặc biệt của các chủ thể tham gia TTCK, đặc biệt là các NĐT.

1.1.3. Đặc điểm báo cáo tài chính của doanh nghiệp niêm yết

Đặc điểm BCTC của doanh nghiệp niêm yết chịu sự chi phối bởi đặc điểm của DNNY, qua đó tác động tới quan điểm về chất lượng kiểm toán cũng như mức độ ảnh hưởng của các nhân tố tới chất lượng kiểm toán BCTC của các DNNY.

BCTC là sự trình bày một cách hệ thống về các thông tin tài chính quá khứ, bao gồm các thuyết minh có liên quan, với mục đích công bố thông tin về tình hình tài chính và các nghĩa vụ của đơn vị tại một thời điểm hoặc những thay đổi trong một thời kỳ, phù hợp với khuôn khổ về lập và trình bày báo cáo tài chính. Trường hợp tổ chức phát hành (DNNY) là công ty mẹ cần có BCTC hợp nhất. BCTC của DNNY có những đặc điểm chính sau:

Thứ nhất, BCTC DNNY đòi hỏi độ tin cậy cao và rất nhạy cảm: Xuất phát từ đặc trưng của DNNY là công ty cổ phần đại chúng, được phát hành cổ phiếu trên


TTCK, cổ phiếu của DNNY được phép tự do mua bán trên thị trường, theo đó, BCTC của DNNY nhận được sự quan tâm của đa dạng đối tượng, không chỉ là chính ban lãnh đạo doanh nghiệp, các nhà quản lý (cơ quan thuế, ủy ban chứng khoán...), các đối tác kinh doanh (nhà cung cấp, đối tác liên danh, liên kết..), các nhà cung cấp tín dụng (ngân hàng, các tổ chức tài chính...), mà đặc biệt là nhận được sự quan tâm của đông đảo công chúng là các NĐT tổ chức và cá nhân (các quĩ đầu tư, các công ty chứng khoán, các chuyên gia phân tích tài chính, cổ đông và cộng đồng các NĐT thuộc nhiều tầng lớp với số lượng đông, trình độ cao thấp khác nhau). Do vậy, các thông tin trên BCTC của DNNY đòi hỏi có độ tin cậy cao và rất nhạy cảm với các quyết định của người sử dụng thông tin. Người sử dụng, nhất là các NĐT có thể phải chịu thiệt hại nặng nề về kinh tế nếu các quyết định dựa trên các BCTC thiếu tin cậy, hơn nữa, điều này có thể gây ảnh hưởng tới lòng tin của NĐT vào TTCK, cũng như ảnh hưởng lan tỏa tới sự phát triển an toàn, lành mạnh của TTCK.

Thứ hai, BCTC theo dõi và phản ánh nhiều chỉ tiêu đặc thù: Xuất phát từ đặc điểm cổ phiếu của DNNY được sở hữu bởi số lượng lớn cổ đông và liên tục có sự biến động, do vậy, BCTC của DNNY phải theo dõi và phản ánh các nghiệp vụ chi tiết về vốn chủ sở hữu theo từng đối tượng cổ đông và theo từng thời điểm (cổ phiếu phát hành thêm và cổ tức); dẫn đến các chỉ tiêu chỉ xuất hiện trên BCTC của công ty cổ phần nói chung và của DNNY nói riêng như “thặng dư vốn cổ phần”, “cổ phiếu quĩ” trên bảng cân đối kế toán; “lãi cơ bản trên một cổ phiếu” trên báo cáo kết quả kinh doanh; hay “lợi ích của cổ đông thiểu số” trên các BCTC hợp nhất; và Thuyết minh BCTC là một bộ phận rất quan trọng của BCTC, trong khi đối với các loại hình doanh nghiệp khác không được quan tâm nhiều.

Thứ ba, BCTC phản ánh khối lượng nghiệp vụ lớn và phức tạp: Đặc điểm của các DNNY thường có qui mô lớn và hoạt động đa ngành nghề, gồm cả lĩnh vực nhiều rủi ro, theo đó, nếu là BCTC của công ty mẹ phải bao gồm BCTC hợp nhất từ các công ty con, công ty liên kết, chứa đựng các quan hệ tài chính phức tạp hơn như đầu tư công ty con, đầu tư chéo, đầu tư ra nước ngoài. Bên cạnh đó, BCTC có nhiều chỉ tiêu, nhiều khoản ước tính kế toán (dự phòng đầu tư), thông tin trình bày cũng như theo dõi các nghiệp vụ, khoản mục phức tạp theo đặc thù ngành nghề kinh doanh của DNNY như ngành tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, xây dựng, bất động sản…

Xem tất cả 225 trang.

Ngày đăng: 13/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí