kinh tế hàng hoá. Phát triển xuất khẩu góp phần giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, nâng cao chất lượng và trình độ của người lao động, cải thiện đời sống nhân dân, từ đó phát triển nền kinh tế theo chiều sâu.
2.2.4. Xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Việt Nam từ chỗ chủ yếu xuất khẩu các sản phẩm thô, chưa qua chế biến, giá trị gia tăng thấp, đến nay chúng ta đã chú ý đầu tư phát triển các ngành công nghiệp nhẹ, tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp chế biến và các ngành công nghiệp chế tạo linh kiện điện tử và công nghiệp phần mềm. Đồng thời, thực hiện chiến lược hướng ra xuất khẩu, cơ cấu lao động của Việt Nam đang chuyển dịch theo hướng giảm dần lao động nông nghiệp, tăng tỷ lệ lao động phi nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ.
2.2.5. Xuất khẩu thúc đẩy các mối liên kết kinh tế
Xuất khẩu phát triển sẽ kéo theo sự phát triển của hàng loạt các ngành có liên quan như công nghệ chế biến, dịch vụ, vận tải,…Chẳng hạn, xuất khẩu nông sản thúc đẩy công nghiệp chế biến nông sản, cơ khí chế tạo máy nông nghiệp phát triển. Việc phát triển các làng nghề sản xuất các sản phẩm xuất khẩu sẽ tạo hiệu ứng thu hút khách du lịch quốc tế đến Việt Nam, phát triển ngành du lịch.
Thông qua xuất khẩu, nền kinh tế quốc dân đang tham gia hoà nhập vào nền kinh tế thế giới, thúc đẩy các mối giao lưu về kinh tế- thương mại, văn hoá giữa các nước.
3. Năng lực xuất khẩu của doanh nghiệp
3.1. Khái niệm năng lực xuất khẩu của doanh nghiệp
3.1.1. Khái niệm
Những năm gần đây, thuật ngữ “năng lực xuất khẩu” (NLXK) thường xuyên được nhắc đến trên các phương tiện thông tin đại chúng. Tuy nhiên câu hỏi “năng lực xuất khẩu là gì?” hiện nay vẫn chưa có một khái niệm chính xác.
Có thể bạn quan tâm!
- Nâng cao năng lực xuất khẩu của doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu sản phẩm nông, lâm, thủy sản sang thị trường Nhật Bản - 1
- Nhóm Chỉ Tiêu Về Kết Quả Và Hiệu Quả Kinh Doanh
- Các Nhân Tố Thuộc Môi Trường Kinh Doanh Quốc Tế
- Chính Sách Và Cơ Chế Nhập Khẩu Hàng Hoá Của Nhật Bản
Xem toàn bộ 116 trang tài liệu này.
Một số quan điểm cho rằng khái niệm “năng lực xuất khẩu” và “khả năng xuất khẩu” là khái niệm đồng nhất và có thể thay thế cho nhau. Tuy nhiên, theo từ điển tiếng Việt “khả năng” và “năng lực” là hai phạm trù khác
nhau. “Khả năng là cái có thể xảy ra trong điều kiện nhất định”, còn "năng lực liên quan chặt chẽ đến hiện thực, nó là cặp phạm trù phản ánh mối quan hệ biện chứng giữa cái hiện có, hiện đang tồn tại thực sự với những gì chưa có, nhưng sẽ có trong điều kiện tương ứng, sự vật nói tới trong khả năng chưa tồn tại”. Như vậy, “năng lực là cái nội tại, cái yếu tố bên trong vốn có của đơn vị, tổ chức hay cá nhân có thể đáp ứng một vấn đề, một nhu cầu nào đó của cuộc sống, của xã hội. Năng lực chính là khả năng được hiện thực hoá. Từ đó có thể thấy rằng khái niệm “năng lực xuất khẩu” khác với khái niệm “khả năng xuất khẩu”.
Trước hết, nếu xuất phát từ nguyên nghĩa của từ “năng lực” là khả năng tối đa có thể thực hiện được một việc gì đó, thì ta có thể hiểu: Năng lực xuất khẩu của một doanh nghiệp là khả năng sản xuất và tiêu thụ sản phẩm hàng hoá, dịch vụ đến mức cao nhất của doanh nghiệp trên thị trường nước ngoài.2 Thứ hai, có thể hiểu “ Năng lực xuất khẩu là khả năng một doanh
nghiệp có thể bán được sản phẩm trên thị trường quốc tế và thu lợi trên cơ sở tạo dựng và khai thác một cách hiệu quả các nguồn lực của doanh nghiệp và những cơ hội thị trường”.3
Cách tiếp cận về năng lực xuất khẩu này có một số hàm ý. Thứ nhất, năng lực xuất khẩu là kết quả của chiến lược và các hoạt động hay nỗ lực có chủ định của một doanh nghiệp nhằm tạo dựng và khai thác một cách hiệu quả nhất các nguồn lực mà doanh nghiệp sở hữu hoặc có khả năng tiếp cận, tức là nó phụ thuộc vào các yếu tố chủ quan của doanh nghiệp. Thứ hai, doanh nghiệp có thể tạo dựng được năng lực xuất khẩu trên cơ sở tiếp cận và khai thác tốt các yếu tố về lợi thế so sánh, môi trường kinh doanh thuận lợi của quốc gia, như cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực, vị trí địa lý, các ngành công nghiệp bổ trợ, điều kiện nhu cầu. Định nghĩa cũng chỉ ra rằng, năng lực xuất khẩu thực sự của doanh nghiệp phải được xem xét trong điều kiện cạnh tranh
2 TS. Bùi Ngọc Sơn, Tác động của môi trường kinh doanh đến năng lực xuất khẩu của doanh nghiệp Việt Nam, Hội thảo khoa học: Những vấn đề lý luận về năng lực xuất khẩu của doanh nghiệp và mô hình đánh giá năng lực xuất khẩu của các doanh nghiệp Hà Nội, 01/2004, tr75-76
3 CN. Ngô Quý Nhâm, Các căn cứ để xây dựng mô hình đánh giá năng lực xuất khẩu của DN, Hội thảo khoa học: Những vấn đề lý luận về năng lực xuất khẩu của doanh nghiệp và mô hình đánh giá năng lực xuất khẩu của các doanh nghiệp Hà Nội, 01/2004, tr36-37
tự do, tức là bất cứ sự bảo hộ hay trợ giá nào của chính phủ đều phải được loại bỏ khi xem xét năng lực xuất khẩu của doanh nghiệp.
Từ những phân tích trên, tổng hợp lại có thể hiểu “ Năng lực xuất khẩu doanh nghiệp là khả năng doanh nghiệp khai thác và tận dụng một cách hiệu quả các nguồn lực của mình kết hợp với những chiến lược, đối sách thích hợp trong môi trường kinh doanh của doanh nghiệp để thực hiện sản xuất và/ hoặc thu gom và cung ứng, trao đổi hàng hoá- dịch vụ với nước ngoài nhằm mục đích lợi nhuận cao và không ngừng mở rộng thị trường”. 4
3.1.2. Phân biệt năng lực xuất khẩu và năng lực cạnh tranh
Khi phân tích năng lực xuất khẩu, chúng ta thường nhắc tới khái niệm năng lực cạnh tranh. Đây là hai khái niệm rất dễ nhầm lẫn và cần phải phân biệt.
Năng lực cạnh tranh là năng lực tồn tại, duy trì hay gia tăng lợi nhuận, thị phần trên thị trường cạnh tranh của các sản phẩm hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp. Nói cách khác, đó là khả năng bù đắp chi phí, duy trì lợi nhuận và được đo bằng thị phần hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp ở cả trong và ngoài nước. 5 Các yếu tố tạo nên năng lực cạnh tranh bao gồm công nghệ-kỹ
thuật, năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, trình độ quản lý và cuối cùng là thị trường đầu ra của sản phẩm. Nói tới năng lực cạnh tranh là nói tới khả năng cạnh tranh với các doanh nghiệp cung cấp sản phẩm cùng loại cả trong và ngoài nước để giành lấy thị phần lớn hơn.
Việc phân biệt năng lực xuất khẩu và năng lực cạnh tranh chỉ mang tính chất tương đối. Thực tế hai khái niệm này có sự đan xen lẫn nhau về nội hàm. Thực chất năng lực xuất khẩu của doanh nghiệp được thể hiện ở khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường quốc tế, tức là doanh nghiệp có khả năng bán sản phẩm trên thị trường quốc tế và thu được lợi nhuận. Để bán được sản phẩm trên thị trường quốc tế (có năng lực xuất khẩu) thì sản phẩm đó phải được chấp nhận bởi các nhà nhập khẩu nước ngoài. Sản phẩm của
4 Nhóm nghiên cứu trường ĐH Ngoại Thương đề tài “Nghiên cứu đề xuất các giải pháp nâng cao năng lực xuất khẩu của các doanh nghiệp Hà Nội nhằm thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá thủ đô trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế”- tr16
5 TS. Bùi Ngọc Sơn, Tác động của môi trường kinh doanh đến năng lực xuất khẩu của doanh nghiệp Việt Nam, Hội thảo khoa học: Những vấn đề lý luận về NLXK của doanh nghiệp và mô hình đánh giá năng lực xuất khẩu của các doanh nghiệp Hà Nội, 01/2004, tr76.
doanh nghiệp có được chấp nhận hay không trên thị trường quốc tế sẽ phụ thuộc vào lợi thế (chí phí và/hoặc khác biệt hoá) mà doanh nghiệp tạo ra. Điều đó có nghĩa là năng lực cạnh tranh là điều kiện cần của năng lực xuất khẩu. Ngược lại, doanh nghiệp có năng lực xuất khẩu, nghĩa là có khả năng xuất khẩu thu lợi nhuận, thì chưa chắc doanh nghiệp đó đã có năng lực cạnh tranh quốc tế. Hiện nay, cạnh tranh trên thương trường diễn ra vô cùng khốc liệt, năng lực cạnh tranh rất dễ bị triệt tiêu và năng lực xuất khẩu không thể trở thành năng lực cạnh tranh nếu doanh nghiệp không tích cực chủ động thường xuyên nâng cao chất lượng và cải tiến, đổi mới sản phẩm phù hợp với những biến động của thị trường.
3.2. Các yếu tố cấu thành năng lực xuất khẩu của doanh nghiệp
Tuỳ theo quan điểm tiếp cận mà có những cách hiểu khác nhau về yếu tố cấu thành năng lực xuất khẩu của doanh nghiệp. Tuy nhiên, ở đây, theo quan điểm của tác giả, các yếu tố cấu thành năng lực xuất khẩu của doanh nghiệp như sau:
3.2.1. Năng lực nghiên cứu thị trường và tiếp thị, tìm kiếm khách hàng
Việc nghiên cứu và phân tích thị trường sẽ giúp doanh nghiệp tìm ra được những thị trường hay phân đoạn thị trường có tiềm năng với doanh nghiệp, đồng thời giúp doanh nghiệp có những điều chỉnh về sản xuất, chiến lược kinh doanh phù hợp với các thay đổi của người tiêu dùng.
Về năng lực Marketing, tìm kiếm khách hàng: Phương thức Marketing có ảnh hưởng đến hiệu quả của hoạt động xuất khẩu của hàng hoá. Các phương thức Marketing phổ biến là quảng cáo, tham gia hội chợ, triển lãm trong nước và quốc tế, quảng cáo, xúc tiến thông qua các Phòng thương mại và công nghiệp và các tổ chức hỗ trợ các nhà xuất khẩu nước ngoài của nước sở tại (như JETRO của Nhật Bản), tổ chức các hoạt động PR,…
3.2.2. Năng lực tổ chức sản xuất
- Khả năng chủ động về nguyên liệu đầu vào sản xuất và khả năng sản xuất: Khả năng này cho thấy doanh nghiệp có khả năng, tiềm lực cung cấp sản phẩm ra thị trường ra sao. Với các doanh nghiệp đi thu mua nguyên liệu
để chế biến xuất khẩu, việc có đủ lượng nguyên liệu cho các đơn hàng đúng thời gian, tiến độ luôn là một bài toán hóc búa đòi hỏi doanh nghiệp phải có một chiến lược thu mua hợp lý.
- Giá cả của sản phẩm: Giá cả của sản phẩm luôn là một trong những điều khoản quan trọng nhất trong mọi hợp đồng. Giá cả của sản phẩm phải đảm bảo đủ bù đắp chi phí bỏ ra và đảm bảo có lợi nhuận với nhà xuất khẩu đồng thời cũng chỉ được nhà nhập khẩu chấp nhận khi đảm bảo lợi nhuận của nhà nhập khẩu. Giá cả sản phẩm phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, song cơ bản do giá thành sản xuất quyết định. Vì vậy, khi đánh giá năng lực tổ chức sản xuất của một doanh nghiệp, người ta thường xem xét khả năng tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm, giảm chi phí trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp.
- Chất lượng của sản phẩm: Hàng hoá chỉ có thể được người tiêu dùng tin dùng khi có giá cả hợp lý và chất lượng đảm bảo. Chất lượng cao, giá cả hợp lý là những tiêu chí tạo nên sức cạnh tranh của hàng hoá và doanh nghiệp trên thị trường trong nước và quốc tế. Sức cạnh tranh của hàng hoá và doanh nghiệp tăng sẽ góp phần nâng cao năng lực xuất khẩu của doanh nghiệp.
3.2.3. Năng lực tổ chức xuất khẩu
- Năng lực tổ chức xuất khẩu thể hiện khả năng thực hiện hợp đồng xuất khẩu, khả năng giao hàng đúng hạn và nghệ thuật bán hàng phù hợp, phương thức thanh toán thuận tiện, năng lực thực hiện những dịch vụ sau bán hàng của doanh nghiệp. Năng lực tổ chức xuất khẩu của doanh nghiệp thưòng gồm một số mặt:
+ Năng lực đàm phán, ký kết các hợp đồng xuất khẩu;
+ Năng lực thực hiện các nghiệp vụ xuất khẩu (thu mua, vận chuyển hàng hoá xuất khẩu, mua bảo hiểm, thuê tàu,…);
+ Năng lực thực hiện nghiệp vụ thanh toán quốc tế;
+ Năng lực xử lý các tình huống khi các tranh chấp thương mại phát
sinh.
3.2.4. Khả năng chiếm lĩnh và mở rộng thị trường.
Khả năng này phản ánh sức mạnh của doanh nghiệp đối với thị trường. Vấn đề chiếm lĩnh và mở rộng thị trường phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, song, về cơ bản doanh nghiệp cần phải xây dựng được chiến lược kinh doanh và chiến lược thị trường dài hạn.
3.3. Các chỉ tiêu đánh giá năng lực xuất khẩu của doanh nghiệp
Muốn đánh giá năng lực xuất khẩu của doanh nghiệp, ta cần xây dựng một hệ thống chỉ tiêu đánh giá. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá năng lực xuất khẩu của doanh nghiệp có thể được xây dựng bao gồm hai nhóm chỉ tiêu cơ bản: Nhóm chỉ tiêu về điều kiện sản xuất kinh doanh và nhóm chỉ tiêu về hiệu quả sản xuất kinh doanh.
3.3.1. Nhóm chỉ tiêu về điều kiện sản xuất kinh doanh
- Chiến lược xuất khẩu của doanh nghiệp
Chiến lược xuất khẩu của doanh nghiệp thể hiện tầm nhìn chiến lược của doanh nghiệp, hoạch định được mục tiêu cần đạt được, thể hiện khả năng phân tích, dự báo và có giải pháp đối với những thay đổi của thị trường trong tương lai: nhu cầu, thị hiếu, biến động cung cầu,…Đồng thời chiến lược xuất khẩu cũng thể hiện hiểu biết của doanh nghiệp về môi trường kinh doanh về môi trường ngành, về môi trường pháp lý, hệ thống chính sách pháp luật, về cung cầu thị trường, đầu vào, đầu ra của sản xuất
Chiến lược xuất khẩu của doanh nghiệp thường gồm: thời hạn của chiến lược, tầm nhìn, mục đích hướng tới như thị trường, dự báo nhu cầu và khả năng đầu vào, năng lực sản xuất của doanh nghiệp, phương thức tiến hành, phân tích cơ hội thách thức với doanh nghiệp, xem xét trên cơ sở tương quan với các doanh nghiệp, đối thủ cạnh tranh khác
- Hệ thống quản lý chất lượng của doanh nghiệp
Việc thực hiện và nhận được các chứng nhận quốc tế góp phần nâng cao vị thế của doanh nghiệp trong lòng người tiêu dùng, đẩy mạnh khả năng được người tiêu dùng chú ý. Đồng thời việc duy trì thể hiện uy tín và cam kết của doanh nghiệp đối với người tiêu dùng về việc đảm bảo chất lượng sản phẩm ổn định, đáng tin cậy.
- Các chỉ tiêu thuộc về sản phẩm:
+Chất lượng sản phẩm
Mỗi loại sản phẩm có những yêu cầu khác nhau về chất lượng. Tuy nhiên, sản phẩm đảm bảo chất lượng là sản phẩm phải được sản xuất đúng quy trình công nghệ từ khâu cung ứng nguyên liệu cho tới khi thành thành phẩm. Quá trình sản xuất phải được kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ ở tất cả các khâu. Sản phẩm làm ra phải được kiểm định bởi hệ thống kiểm tra chất lượng của công ty và/hoặc hệ thống kiểm tra chất lượng của khách hàng và/ hoặc hệ thống kiểm tra của tổ chức đo lường chất lượng có uy tín, được công nhận. Sản phẩm còn phải đảm bảo thoả mãn các yêu cầu vệ sinh, môi trường, phải mang tính xã hội, không gây hại tới sức khoẻ người tiêu dùng. Nâng cao chất lượng sản phẩm để nâng cao năng lực xuất khẩu của doanh nghiệp là vấn đề chung mà bất kì doanh nghiệp nào cũng phải quan tâm giải quyết trong điều kiện cạnh tranh khốc liệt hiện nay.
+ Giá cả của sản phẩm
Giá cả là một trong những tiêu chí quan trọng ảnh hưởng đến quyết định mua sắm của người tiêu dùng, do đó giá sản phẩm phải hợp lý, tương xứng với giá trị của sản phẩm. Đối với doanh nghiệp, giá sản phẩm phải đảm bảo đủ bù đắp chi phí sản xuất đồng thời đảm bảo yêu cầu đem lại lợi nhuận. Nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm luôn là yếu tố căn bản nâng cao năng lực xuất khẩu của doanh nghiệp.
+ Bao bì, kiểu dáng, mẫu mã sản phẩm
Ngày nay, bao bì sản phẩm không chỉ dừng lại ở việc là hình thức, vỏ bọc bên ngoài sản phẩm mà còn là biểu tượng của doanh nghiệp. là sức hút của sản phẩm đối với người tiêu dùng. Kiểu dáng, mẫu mã sản phẩm phải phù hợp với thị trường, thu hút sự chú ý và kích thích nhu cầu mua hàng của người tiêu dùng. Do đó , kiểu dáng sản phẩm phải tiện lợi, đa dạng và phù hợp với thẩm mỹ của người tiêu dùng. Để nâng cao năng lực xuất khẩu của doanh nghiệp, doanh nghiệp cần hết sức chú ý đến khâu thiết kế bao bì, kiểu dáng, mẫu mã sản phẩm
+ Uy tín thương hiệu sản phẩm
Trong nỗ lực thâm nhập thị trường, gắn liền với việc nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm, doanh nghiệp phải không ngừng xây dựng uy tín cho sản phẩm. Uy tín thương hiệu của sản phẩm được tạo nên bởi chất lượng sản phẩm, hệ thống phân phối, các dịch vụ sau bán hàng,… Uy tín thương hiệu của sản phẩm do người tiêu dùng đánh giá, lựa chọn và có ảnh hưởng quan trọng đến quyết định mua hàng của người tiêu dùng. Xây dựng uy tín thương hiệu sản phẩm cũng là xây dựng hình ảnh của doanh nghiệp, khả năng tiếp cận của doanh nghiệp với người tiêu dùng càng tăng lên, năng lực xuất khẩu của doanh nghiệp cũng được nâng cao.
- Các yếu tố thuộc nguồn nhân lực và quản lý của doanh nghiệp
Đội ngũ nhân lực của doanh nghiệp là một nguồn lực quan trọng cốt yếu của doanh nghiệp. Chất lượng nguồn nhân lực của doanh nghiệp thường được thể hiện ở các yếu tố: trình độ học vấn trung bình, năng suất lao động, tuổi đời trung bình, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo và có kinh nghiệm, tỷ lệ lao động có trình độ tay nghề cao, khả năng tin học và ngoại ngữ của người lao động, khả năng tác nghiệp theo nhóm và năng lực sáng tạo,… Về chất lượng của đội ngũ quản lý thường được thể hiện ở các yếu tố: khả năng tổ chức và phân công công việc, khả năng xây dựng chiến lược và khả năng kiểm tra, kiểm soát quá trình kinh doanh hoạt động của doanh nghiệp, trình độ học vấn, thâm niên,...
- Trình độ ứng dụng khoa học công nghệ của doanh nghiệp
Hiện nay, khoa học công nghệ đã trở thành một phần vô cùng quan trọng trong việc tạo nên năng lực xuất khẩu của doanh nghiệp. Doanh nghiệp nào nắm bắt được khoa học công nghệ coi như đã có được chìa khoá của sự thành công. Trình độ khoa học công nghệ của doanh nghiệp được đánh giá thông qua: khả năng tự phát triển và ứng dụng những công nghệ mới, mức độ hiện đại của máy móc, chiến lược công nghệ của doanh nghiệp,…
- Hiệu quả của hoạt động quảng cáo, xúc tiến thương mại