cạnh tranh phổ quát – chi phí thấp, khác biệt hóa và trọng tâm, những chiến lược đã biến định vị chiến lược trở thành một hoạt động có cấu trúc.
- Ambashta & Momaya (2002), Competitiveness of firms: Review of the frameworks and models, Singapore Management Review: Đi sâu vào nghiên cứu các lý thuyết về năng lực cạnh tranh chuỗi cung ứng, đồng thời xem xét các yếu tố trong khả năng cạnh tranh chuỗi cung ứng.
2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước.
Sách, báo, tạp chí và các công trình nghiên cứu có liên quan
- Nguyễn Hoàng Long, Nguyễn Hoàng Việt (2015), Quản trị chiến lược, NXB Thống Kê.
- Bùi Xuân Phong (2007), “Các yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh-cơ sở quan trọng để xây dựng tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp”: Cuốn sách chỉ ra rằng để biết năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp như thế nào, ta phải dựa vào một hệ thống các tiêu chí. Hệ thống này chủ yếu được xây dựng trên cơ sở các yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Các phân tích phân nào nói lên được nội dung cốt lõi tạo nên năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp với tầm nhận thực của tác giả trong quá trình nghiên cứu.
- Luận văn thạc sĩ (2016) “Năng lực cạnh tranh trong lĩnh vực xây lắp của Tổng Công ty Đầu tư và Phát triển Nhà và Đô thị Bộ quốc phòng” của tác giả Đỗ Xuân Đại, trường đại học Kinh tế-Đại học Quốc gia Hà Nội. Luận văn đã phân tích đánh giá chi tiết thực trạng năng lực cạnh tranh, các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh trong lĩnh vực xây lắp của Tổng Công ty Đầu tư và Phát triển Nhà và Đô thị Bộ quốc phòng và đưa ra các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty trong lĩnh vực xây lắp.
- Luận văn (2013) “Nghiên cứu đề xuất các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty Cổ phần VIWASEEN 6” của tác giả Cồ Thị Mai, luận văn đã phân tích rõ thực trạng trong năng lực cạnh tranh của công ty từ đó rút ra điểm mạnh, yếu và đưa ra phương hướng giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu về năng lực cạnh tranh rất phong phú và đa dạng, được thực hiện ở các lĩnh vực cũng như ngành nghề kinh doanh khác nhau đã đạt được những kết quả như mục tiêu đã nêu trong đề tài, đánh giá và đưa ra những giải pháp tốt cho vấn đề nghiên cứu ở thời điểm hiện tại.
Tuy nhiên, đề tài khóa luận “Nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty Cổ phần Nam Dược” là một nghiên cứu mới, chưa được thực hiện không trùng lặp với các
nghiên cứu trước đây, tập trung phân tích đề xuất các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty Cổ phần Nam Dược
3. Các mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Khóa luận đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh của công ty Cổ phần Nam Dược trên thị trường nội địa, để từ đó đưa ra các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu.
Đề tài “Nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty Cổ phần Nam Dược trên thị trường nội địa” nhằm giải quyết 3 nhiệm vụ cơ bản:
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về năng lực cạnh tranh của công ty kinh doanh.
- Phân tích thực trạng năng lực cạnh tranh của công ty Cổ phần Nam Dược, từ đó rút ra những thành công, hạn chế và nguyên nhân của những thành công, hạn chế đó.
- Đề xuất hệ thống các giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty Cổ phần Nam Dược
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Khóa luận tập trung nghiên cứu, phân tích các nhân tố ảnh hưởng và các tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh từ đó đưa ra các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty Cổ phần Nam Dược
- Phạm vi nghiên cứu:
Về không gian:
+ Giới hạn sản phẩm mục tiêu nghiên cứu trong đề tài là các sản phẩm thuốc đông dược và thực phẩm chức năng của công ty Cổ phần Nam Dược với đối tượng khách hàng mục tiêu là các doanh nghiệp, đại lý bán buôn, bán lẻ của công ty.
+ Giới hạn thị trường mục tiêu nghiên cứu trong đề tài: thị trường nội địa
Về thời gian:
+ Thực trạng về hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty Cổ phần Nam Dược năm 2018 đến năm 2021, phương hướng của đề tài hướng đến năm 2022, tầm nhìn 2025.
- Phạm vi nội dung: Công ty Cổ phần Nam Dược là công ty hoạt động trong lĩnh vực Bán buôn thuốc, kinh doanh dược liệu, mỹ phẩm; Tư vấn, đào tạo dịch vụ và chuyển giao công nghệ dược phẩm, mỹ phẩm; Bán buôn thực phẩm chức năng, thực phẩm bổ sung dinh dưỡng trên thị trường Việt Nam …. Tuy nhiên, đề tài chỉ tập trung nghiên cứu sức cạnh tranh của sản phẩm thuốc đông dược
và thực phẩm chức năng – là những mặt hàng chủ lực có vị trí quan trọng đóng góp vào tổng doanh thu của công ty.
5. Phương pháp nghiên cứu.
Đề tài nghiên cứu sử dụng các phương pháp nghiên cứu gồm định tính và định lượng với các phương pháp chủ yếu sau đây:
- Phương pháp thu thập thông tin từ các số liệu báo cáo của công ty, thu thập từ các nguồn báo chí, internet, …
- Phương pháp phân tích thống kê và phân tích dữ liệu, so sánh trên cơ sở những số liệu và thông tin thu thập được.
Phương pháp thu thập dữ liệu: dữ liệu gồm 2 loại: dữ liệu sơ cấp và dữ liệu thứ cấp. Dữ liệu sơ cấp là dữ liệu tự thu thập cho vấn đề nghiên cứu đặt ra. Dữ liệu thứ cấp là dữ liệu do người khác thu thập sử dụng cho các mục đích trước đó có thể là dữ liệu chưa qua xử lý (số liệu thô) hoặc số liệu đã qua xử lý.
Phương pháp tổng quan tài liệu: là tổng hợp tất cả các vấn đề liên quan đến nghiên cứu dựa trên những tài liệu báo cáo và công trình nghiên cứu đã được thực hiện kể cả ở trong nước và thế giới. Tổng quan tài liệu không chỉ là việc xem xét, tập hợp, liệt kê thông tin ý tưởng được nêu trong các tài liệu có sẵn mà còn phân tích đánh giá, so sánh, tổng hợp những tài liệu này trong mối liên hệ với mục tiêu đã đề ra. Phương pháp này được sử dụng khi tổng hợp những lý thuyết liên quan đến vấn đề nghiên cứu như: khái niệm cạnh tranh, sức cạnh tranh, phân loại, các chỉ tiêu đánh giá sức cạnh tranh…
Phương pháp so sánh: là đối chiếu các chỉ tiêu, các hiện tượng kinh tế đã được lượng hóa có cùng một nội dung, một tính chất tương tự để xác định xu hướng và mức độ biến động của các chỉ tiêu đó. Phương pháp này được sử dụng trong quá trình so sánh cơ cấu sản phẩm, chủng loại - mẫu mã, giá cả đối với các đối thủ cạnh tranh nhằm chỉ ra những điểm mạnh, điểm yếu đối với sức cạnh tranh của sản phẩm so với các đối thủ.
Phương pháp thống kê: là sử dụng các công cụ thống kê như ghi chép, nghiên cứu các tài liệu sẵn có để phân tích doanh thu, chi phí, lợi nhuận.
Phương pháp chỉ số: Là phương pháp phân tích số liệu dựa trên các con số tỷ lệ hoặc phần trăm của đối tượng nghiên cứu so với tổng thể, qua đó rút ra các nhận xét, đánh giá về tỷ lệ thu được so với tổng thể tùy theo các mục tiêu nghiên cứu.
6. Kết cấu đề tài
Để thực hiện được mục đích của đề tài, ngoài lời cảm ơn, danh mục bảng biểu hình vẽ, danh mục từ viết tắt, lời mở đầu, phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo; phần nội dung chính chia làm 3 chương:
- Chương 1. Một số lý luận cơ bản về nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
- Chương 2. Phân tích và đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh của công ty Cổ phần Nam Dược
- Chương 3. Định hướng và đề xuất giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty Cổ phần Nam Dược.
CHƯƠNG I: MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP
1.1. Một số khái niệm về cạnh tranh và nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Về cạnh tranh:
Khái niệm cạnh tranh ra đời khi nền kinh tế thị trường xuất hiện. Trong lịch sử phát triển của nền kinh tế thế giới đã có rất nhiều quan điểm khác nhau về cạnh tranh được nhiều tác giả trình bày dưới những góc độ khác nhau.
Theo nhà kinh tế học Michael Porter (1998): “Cạnh tranh là giành lấy thị phần. Bản chất của cạnh tranh là tìm kiếm lợi nhuận, là khoản lợi nhuận cao hơn mức lợi nhuận trung bình mà doanh nghiệp đang có. Kết quả quá trình cạnh tranh là sự bình quân hóa lợi nhuận trong ngành theo chiều hướng cải thiện sâu dẫn đến hệ quả giá cả có thể giảm đi”.
Theo Từ điển Bách Khoa Việt Nam: “Cạnh tranh trong kinh doanh là hoạt động tranh đua giữa những người sản xuất hàng hóa, giữa các thương nhân, các nhà kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, mối quan hệ cung cầu nhằm giành các điều kiện sản xuất, tiêu thụ thị trường có lợi nhất”.
Ngoài ra còn rất nhiều các cách hiểu khác nhau về cạnh tranh, song có thể tổng kết lại như sau: Cạnh tranh là quan hệ kinh tế mà ở đó tồn tại sự ganh đua giữa các chủ thể kinh tế (nhà sản xuất, nhà phân phối, bán lẻ, người tiêu dùng, thương nhân...) nhằm giành lấy những vị thế tạo nên lợi thế tương đối trong sản xuất, tiêu thụ hay tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ hay các lợi ích về kinh tế thương mại khác để thu được nhiều lợi ích nhất cho mình”.
Về năng lực:
Theo D.S. Rychen và L.H.Salganik (2001): “Năng lực không chỉ là kiến thức và kĩ năng, nó nhiều hơn thế. Năng lực bao gồm khả năng đáp ứng các yêu cầu phức tạp dựa trên việc huy động các nguồn lực tập lý trông một hoàn cảnh cụ thể”.
Tóm lại, có thể nói năng lực là tập hợp các kĩ năng, kiến thức, khả năng tư duy cần phải có của con người để xử lý, đáp ứng công việc, giúp con người làm việc hiệu quả.
Về năng lực cạnh tranh:
Khái niệm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp đến nay vẫn chưa được hiểu một cách thống nhất mặc dù thuật ngữ này đã được phổ biến rất rộng rãi. Trong lịch sử phát triển của nền kinh tế thế giới, đã có rất nhiều quan điểm khác nhau về năng lực cạnh tranh xét ở các góc độ khác nhau. Luận văn này sẽ chủ yếu đề cấp đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Theo tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD): “Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là sức sản xuất ra thu nhập tương đối cao trên cơ sở sử dụng các yếu tố sản xuất có hiệu quả làm cho các doanh nghiệp phát triển bền vững trong điều kiện cạnh tranh quốc tế”
Theo nhà quản trị chiến lược Michael Porter (1998): “Năng lực cạnh tranh của công ty có thể hiểu là khả năng chiếm lĩnh thị trường tiêu thụ các sản phẩm cùng loại (hay sản phẩm thay thế) của công ty đó. Năng lực giành giật và chiếm lĩnh thị trường tiêu thụ cao thì doanh nghiệp đó có năng lực cạnh tranh cao”.
Từ những quan niệm khác nhau trên, có thể hiểu năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là sự thể hiện thực lực và lợi thế của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh trong việc thỏa mãn tốt nhất các đòi hỏi của khách hàng để thu lợi nhuận ngày càng cao, bằng việc khai thác, sử dụng thực lực và lợi thế bên trong, bên ngoài nhằm tạo ra những sản phẩm, dịch vụ hấp dẫn người tiêu dùng để tồn tại và phát triển, thu được lợi nhuận ngày càng cao và cải tiến vị trí so với các đối thủ cạnh tranh trên thị trường.
Các cấp độ năng lực cạnh tranh:
Năng lực cạnh tranh gồm có ba cấp độ: Năng lực cạnh tranh quốc gia, năng lực cạnh tranh cấp độ ngành, năng lực cạnh tranh cấp độ doanh nghiệp và năng lực cạnh tranh của sản phẩm.
- Năng lực cạnh tranh cấp quốc gia:
Năng lực cạnh tranh quốc gia là khả năng cạnh tranh của một nước để sản xuất các hàng hóa và dịch vụ đáp ứng được thử thách của thị trường quốc tế. Đồng thời,
duy trì và mở rộng được thu nhập thực tế của công dân nước đó. Mặt khác, năng lực cạnh tranh quốc gia phản ánh khả năng của một nước để tạo ra việc sản xuất sản phẩm, phân phối sản phẩm và dịch vụ trong thương mại quốc tế, trong khi kiếm được thu nhập tăng lên từ nguồn lực của nó.
- Năng lực cạnh tranh cấp độ ngành:
Theo diễn đàn cao cấp về cạnh tranh công nghiệp (HLFIC) của tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế OECD, năng lực cạnh tranh cấp độ ngành là khả năng của ngành trong việc tạo ra thu nhập cao hơn và mức độ sử dụng lao động cao hơn, trong khi vẫn phải đối mặt với cạnh tranh quốc tế. Năng lực kinh doanh của ngành còn thể hiện ở thị phần, cơ cấu và năng lực cạnh tranh nội bộ ngành, các ngành công nghiệp phụ trợ và sự kết hợp các yếu tố đó với nhau.
- Năng lực cạnh tranh cấp độ doanh nghiệp:
Năng lực này được thể hiện ở chiến lược kinh doanh thích hợp và hiệu quả kinh doanh từ khâu nắm bắt thông tin đến khâu tổ chức sản xuất, từ đổi mới công nghệ tới phương pháp quản lý, phục vụ, từ đổi mới mặt hàng, các loại hình dịch vụ đến công việc tiếp thị, quảng cáo. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được đo bằng khả năng duy trì và mở rộng thị trường, lợi nhuận của doanh nghiệp trong môi trường cạnh tranh và một số tiêu chí khác như nguồn lực về vốn, công nghệ, con người, quản lý, chất lượng, giá cả, hệ thống phân phối xúc tiến, …
- Năng lực cạnh tranh cấp độ sản phẩm:
Năng lực cạnh tranh cấp sản phẩm được hiểu là khả năng sản phẩm có được nhằm duy trì được vị thế của nó một cách lâu dài trên thị trường cạnh tranh. Năng lực cạnh tranh sản phẩm được nhận biết thông qua lợi thế cạnh tranh của sản phẩm đó với các sản phẩm khác cùng loại có thể được đánh giá thông qua: giá sản phẩm, sự vượt trội về chất lượng sản phẩm, mẫu mã, kiểu dáng sản phẩm, thương hiệu… so với đối thủ cạnh tranh trên cùng một phân đoạn thị trường vào cùng một thời điểm.
Về nâng cao năng lực cạnh tranh:
Từ các nội dung trên ta có thể hiểu nâng cao năng lực cạnh tranh là tổng hợp các biện pháp, giải pháp để có thể tăng cường thế mạnh của các nguồn lực, từ đó tạo ra lợi thế cạnh tranh, vượt qua các đối thủ khác, giành lấy thị phần và khách hàng về phía mình.
Nâng cao năng lực cạnh tranh là hoạt động vô cùng cần thiết và mang tính cấp thiết đối với tất cả các doanh nghiệp hiện nay. Đặc biệt là đối với các doanh nghiệp Việt Nam, trước thực tiễn hội nhập kinh tế và sự yếu kém vốn có thì việc nâng cao
năng lực cạnh tranh quyết định sự tồn vong của doanh nghiệp trước sức ép cạnh tranh gay gắt đến từ các doanh nghiệp khác trên thế giới.
1.2. Lý thuyết cơ bản nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
1.2.1. Một số lý thuyết về nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Lý thuyết lợi thế cạnh tranh của M.Porter.
Một sản phẩm được coi là có sức cạnh tranh và có thể đứng vững khi có mức giá thấp hơn hoặc khi cung cấp các sản phẩm tương tự với chất lượng hay dịch vụ ngang bằng. Theo lý thuyết thương mại truyền thống năng lực cạnh tranh được xem xét qua lợi thế so sánh về chi phí sản xuất và năng suất lao động.
Theo M.Porter, NLCT phụ thuộc vào khả năng khai thác các năng lực độc đáo của mình để tạo ra sản phẩm có giá phí thấp và sự dị biệt của sản phẩm. Muốn nâng cao năng lực cạnh tranh, doanh nghiệp cần phải xác định lợi thế của mình để đạt thắng lợi trong cạnh tranh. Có hai nhóm lợi thế cạnh tranh:
- Lợi thế về chi phí: Tạo ra sản phẩm có chi phí thấp hơn đối thủ cạnh tranh. Các nhân tố sản xuất như đất đai, vốn, lao động thường được xem là nguồn lực để tạo lợi thế cạnh tranh.
- Lợi thế về sự khác biệt: Dựa vào sự khác biệt của sản phẩm làm tăng giá trị cho khách hàng, giảm chi phí sử dụng sản phẩm hoặc nâng cao tính hoàn thiện khi sử dụng sản phẩm. Lợi thế này cho phép thị trường chấp nhận mức giá thậm chí cao hơn đối thủ.
Lý thuyết đánh giá năng lực cạnh tranh tổng thể của doanh nghiệp.
Theo GS. TS Nguyễn Bách Khoa trình bày trong bài viết “Phương pháp luận xác định năng lực cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế của doanh nghiệp” được đăng trên tạp chí khoa học thương mại của trường đại học Thương Mại thì năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được hiểu là: tích hợp các khả năng và nguồn nội lực để duy trì và phát triển thị phần, lợi nhuận và định vị những ưu thế cạnh tranh của sản phẩm của doanh nghiệp trong mối quan hệ với đối thủ cạnh tranh trực tiếp và tiềm tàng trên một thị trường mục tiêu xác định. Để đánh giá năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp người ta thường sử dụng các tiêu chí có thể được lượng hóa trong tương quan so sánh với các đối thủ cạnh tranh. Cụ thể gồm các tiêu chuẩn sau:
Bảng 1.1: Các tiêu chuẩn đánh giá năng lực cạnh tranh tổng thể
NLCT thị trường | |
Năng lực tài chính | Thị phần thị trường |
Năng lực quản trị lãnh đạo | Chính sách sản phẩm |
Có thể bạn quan tâm!
- Nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty Cổ phần Nam Dược trên thị trường nội địa - 1
- Tiêu Chí Và Chỉ Tiêu Đánh Giá Năng Lực Cạnh Tranh Của Doanh Nghiệp
- Nâng Cao Năng Lực Cạnh Tranh Về Quản Trị Và Chất Lượng Nguồn Nhân Lực.
- Tổng Quan Tình Hình Và Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Nâng Cao Năng Lực Cạnh Tranh Của Công Ty Cổ Phần Nam Dược
Xem toàn bộ 69 trang tài liệu này.
Chính sách định giá | |
Quy mô sản xuất, kinh doanh | Mạng lưới phân phối |
Cơ sở vật chất kỹ thuật | Công cụ xúc tiến thương mại |
Hiệu suất R&D | Uy tín và thương hiệu |
Năng lực nguồn nhân lực
Các năng lực cạnh tranh nguồn gồm:
Năng lực tài chính: Để tiến hành hoạt động kinh doanh thì tài chính là yêu cầu đầu tiên, từ mua thành phẩm về đầu tư cơ sở hạ tầng, trang trí, chi phí cho nhân công,
… tất cả đều cần đến tài chính. Đây là một chỉ tiêu không thể thiếu trong các hoạt động kinh doanh của bất kì doanh nghiệp nào. Thông qua chỉ tiêu này công ty sẽ đánh giá được hoạt động kinh doanh nói chung của một doanh nghiệp và trong việc nâng cao vị thế cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường.
Năng lực quản trị lãnh đạo: Quản trị và lãnh đạo là hai lĩnh vực hoàn toàn khác nhau nhưng lại có quan hệ mật thiết với nhau. Bất kể một tổ chức nào đều cần có bộ phận quản trị, nếu thiếu bộ phận này thì công việc sẽ không hoạt động hoặc không hữu hiệu. Việc thiếu hữu hiệu sẽ đưa đến những phí phạm về cả phương diện nhân lực và tài lực.
Năng lực nguồn nhân lực: Bên cạnh nguồn tài chính, thì nguồn nhân lực cũng là vấn đề không thể thiếu khi nói về hoạt động kinh doanh của bất kì doanh nghiệp nào. Trong doanh nghiệp, thương mại và dịch vụ con người là yếu tố không thể thiếu khi đánh giá NLCT của doanh nghiệp đó.
Quy mô kinh doanh: Một doanh nghiệp có quy mô lớn có thể thu được các khoản lợi tức tăng thêm nhờ sự tiết kiệm do việc sản xuất hàng loạt với khối lượng lớn. Nói cách khác, lợi thế kinh tế theo quy mô bao gồm hiệu quả giảm chi phí do sản xuất đại trà, các sản phẩm đã được tiêu chuẩn hóa, do giá chiết khấu với khối lượng lớn vật tư, nguyên phụ liệu ở đầu vào sản xuất hoặc do quảng cáo đại trà giúp hạ thấp chi phí quảng cáo trên từng sản phẩm.
Cơ sở vật chất kỹ thuật: Trình độ, máy móc, thiết bị và công nghệ có ảnh hưởng mạnh mẽ tới khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có hệ thống trang bị máy móc, công nghệ, hiện đại thì các sản phẩm của doanh nghiệp nhất định sẽ được bảo toàn về chất lượng, thúc đẩy nhanh quá trình tiêu thụ hàng hóa, tăng nhanh vòng quay về vốn, giảm bớt được khâu kiểm tra chất lượng hàng hóa.
Hiệu suất R&D: Hiệu suất R&D là một chỉ số đáng tin cậy và chính xác nhất thể hiện năng lực R&D của doanh nghiệp. Hiệu suất R&D của doanh nghiệp càng cao càng chứng tỏ hoạt động R&D của doanh nghiệp càng hiệu quả và ngược lại. Hiệu