Quy Ước Khoảng Đo Giá Trị Trung Bình Của Mức Đánh Giá

là số biến quan sát, đây là cỡ mẫu phù hợp cho nghiên cứu có sử dụng phân tích nhân tố (Comrey,1973), (Roger, 2006).

Trong nội dung luận văn này, học viên lấy mẫu theo nguyên tắc của Nguyễn Đình Thọ và Nguyễn Thị Mai Trang (2011). Như vậy, số lượng mẫu tối đa cho nghiên cứu của tác giả là 58 mẫu đối với người thụ hưởng, và 52 mẫu đối với cán bộ quản lý.

Trong 110 phiếu điều tra được (58 phiếu người thụ hưởng và 52 phiếu cán bộ quản lý), tác giả đã lọai bỏ 06 phiếu người thụ hưởng và 04 phiếu cán bộ không đáp ứng được các yêu cầu về nội dung thông tin cần được khảo sát, giữ lại 52 phiếu người thụ hưởng (chiếm tỷ lệ 67.48%) và 48 phiếu cán bộ quản lý (chiếm tỷ lệ 62,38%) đạt yêu cầu để thực hiện các phép toán thống kê. Kết quả thu được sẽ được làm sạch và xử lý với sự hỗ trợ của phần mềm SPSS 20.0

5.3. Phương pháp phân tích dữ liệu

Dữ liệu sau khi được điều tra, thu thập về sẽ tiến hành mã hóa, kiểm tra, việc xử lý dữ liệu được sử dụng bằng phần mềm SPSS 20.0. Sau khi xem xét, loại bỏ các mẫu không phù hợp, số liệu được xử lý bằng máy tính theo các chỉ tiêu tương ứng.

Sử dụng các bảng tần suất để đánh giá những đặc điểm cơ bản của mẫu điều tra thông qua việc tính toán các tham số thống kê như: giá trị trung bình (Mean), sử dụng các bảng tần suất mô tả sơ bộ các đặc điểm của mẫu nghiên cứu.

Cao học viên sử dụng thang đo Likert 5 mức độ để thực hiện nghiên cứu nội dung đề tài: Mức độ đánh giá từ 1 đến 5 được sắp xếp theo hướng tăng dần mức độ đồng ý của người được phỏng vấn đối với các tiêu chí đánh giá hiệu quả sử dụng vốn ODA trong ngành thông tin truyền thông ở Việt Nam và về mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến hiệu quả sử dụng vốn ODA trong ngành thông tin truyền thông ở Việt Nam. Do đó, để thuận tiện cho việc nhận xét khi sử dụng giá trị trung bình (Mean) đánh giá mức độ đồng ý đối với từng yếu tố tác giả quy ước:

Bảng 1.3: Quy ước khoảng đo giá trị trung bình của mức đánh giá


Thang đo

Khoảng đo

Mức đánh giá

5

4,21-5,0

Cao

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 135 trang tài liệu này.

Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn hỗ trợ phát triển chính thức và ngành thông tin và truyền thông - 4

3,41 – 4,20

Khá

3

2,61 – 3,40

Trung bình

2

1,81 – 2,60

Thấp

1

1,0 – 1,80

Rất thấp

4

6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

- Hệ thống hoá lý luận về vốn ODA và khẳng định vai trò của vốn ODA đối với ngành Thông tin và Truyền thông.

- Trên cơ sở phân tích thực trạng, những kết quả và bài học kinh nghiệm trong việc sử dụng vốn ODA trong ngành Thông tin và Truyền thông thời gian qua, từ đó đề xuất những định hướng, các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ODA vào ngành trong thời gian tới;

- Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ là tài liệu tham khảo cho các cơ quan quản lý, các nhà hoạch định chính sách của Bộ Thông tin và Truyền thông, các địa phương tham gia dự án tìm ra phương thức tốt nhất nhằm nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng vốn ODA.

7. Kết cấu của luận văn

Kế cấu của luận văn ngoài phần Mở đầu và Kết luận còn gồm 03 chương:

Chương 1: Vốn hỗ trợ phát triển chính thức và hiệu quả sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức.

Chương 2: Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn hỗ trợ phát triển chính thức vào ngành Thông tin và Truyền thông.

Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn hỗ trợ phát triển chính thức vào ngành Thông tin và Truyền thông.

CHƯƠNG 1: VỐN HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN CHÍNH THỨC VÀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN CHÍNH THỨC

1.1. Những vấn đề lý luận chung về vốn hỗ trợ phát triển chính thức

1.1.1 Khái niệm vốn vốn hỗ trợ phát triển chính thức

Lịch sử ra đời của vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) được bắt đầu từ sau chiến tranh thế giới thứ II, trong khuôn khổ kế hoạch Marshall nhằm tái thiết lại châu Âu. Sau đại chiến thế giới thứ II, các nước công nghiệp phát triển đã thoả thuận trợ giúp cho các nước đang phát triển dưới dạng viện trợ không hoàn lại hoặc cho vay với điều kiện ưu đãi. Tiền thân của WB là IBRD đã được thành lập tại Hội nghị về tài chính - tiền tệ vào ngày 01/07/1944 tại Bretton Woods (Mỹ) với mục tiêu chính là thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và phúc lợi của các nước với tư cách như là một tổ chức trung gian về tài chính, một ngân hàng thực sự với hoạt động chủ yếu hỗ trợ cho vay vốn đầu tư thực hiện các dự án, chương trình sản xuất và thúc đẩy đầu tư tư nhân. Năm 1961, Tổ chức hợp tác kinh tế Châu Âu được thay thế bởi Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế. Trong khuôn khổ hợp tác phát triển các nước thuộc tổ chức OECD, các Uỷ ban chuyên môn được thành lập nhằm điều phối toàn bộ hoạt động của OECD, trong đó có DAC là một trong những Uỷ ban có nhiệm vụ hỗ trợ và cân đối toàn bộ nguồn viện trợ do các nước thuộc OECD đóng góp tới các nước đang phát triển giúp các nước này phát triển kinh tế một cách vững chắc.

Khái niệm vốn ODA đã được nhiều nhà nghiên cứu làm rõ trong nhiều ấn phẩm, trên các tạp chí kinh tế, báo cáo của nhóm tư vấn, diễn văn họp thường niên của các nhà tài trợ...

Năm 1969, Tổ chức OECD đã đưa ra khái niệm về vốn ODA lần đầu tiên như sau: “Vốn hỗ trợ phát triển chính thức là một giao dịch chính thức được thiết lập với mục đích chính là thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của các nước đang phát triển. Điều kiện tài chính của giao dịch này có tính chất ưu đãi và thành tố viện trợ không hoàn lại chiếm ít nhất là 25%”.

Theo WB (1999),“ODA là vốn bao gồm các khoản viện trợ không hoàn lại cộng với các khoản vay ưu đãi có thời gian dài và lãi suất thấp hơn so

với mức lãi suất thị trường tài chính quốc tế. Mức ưu đãi của một khoản vay được đo lường bằng yếu tố cho không. Một khoản tài trợ không phải hoàn trả sẽ có yếu tố cho không là 100% (gọi là khoản viện trợ không hoàn lại). Một khoản vay ưu đãi được coi là ODA phải có yếu tố cho không không ít hơn là 25%”.

Đối với Việt Nam, NĐ số 16/2016/NĐ-CP ngày 16 tháng 03 năm 2016 về Quản lý và sử dụng vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài đã chỉ rõ “Vốn ODA là vốn của nhà tài trợ nước ngoài cung cấp cho Nhà nước hoặc Chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam để hỗ trợ phát triển, bảo đảm phúc lợi và an sinh xã hội, bao gồm:

a) Vốn ODA viện trợ không hoàn lại là loại vốn ODA không phải hoàn trả lại cho nhà tài trợ nước ngoài;

b) Vốn vay ODA là loại vốn ODA phải hoàn trả lại cho nhà tài trợ nước ngoài với mức ưu đãi về lãi suất, thời gian ân hạn và thời gian trả nợ, bảo đảm yếu tố không hoàn lại đạt ít nhất 35% đối với khoản vay có ràng buộc và 25% đối với khoản vay không ràng buộc”.

Có thể thấy rằng có nhiều cách diễn đạt khác nhau về khái niệm vốn ODA tuy nhiên có thể thống nhất ở một số nội dung cơ bản như sau:

- Thứ nhất, hỗ trợ phát triển chính thức là mối quan hệ hợp tác mang tính “hỗ trợ” giữa các quốc gia với nhau nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội thông qua con đường “chính thức” giữa cấp Nhà nước với Nhà nước, giữa Nhà nước hoặc Chính phủ với các tổ chức liên chính phủ hoặc liên quốc gia.

- Thứ hai, yếu tố viện trợ không hoàn lại phải đạt ít nhất 25%.

Từ khái quát đó, tác giả có thể đưa ra định nghĩa về vốn hỗ trợ phát triển chính thức như sau: “ Vốn hỗ trợ phát triển chính thức là vốn hỗ trợ của nhà tài trợ nước ngoài có tính chất viện trợ không hoàn lại hoặc có hoàn lại cho nhà tài trợ nước ngoài với mức ưu đãi về lãi suất, thời gian ân hạn và thời gian trả nợ, bảo đảm yếu tố không hoàn lại đạt ít nhất 25%”.

1.1.2. Các hình thức vốn hỗ trợ phát triển chính thức

a. Theo hình thức cung cấp:

- ODA không hoàn lại: là hình thức cung cấp vốn ODA mà nước tiếp nhận không phải hoàn trả lại cho các Nhà tài trợ.

- ODA vay ưu đãi (hay còn gọi là tín dụng ưu đãi): là khoản vay với các điều kiện ưu đãi về lãi suất, thời gian ân hạn và thời gian trả nợ, bảo đảm “yếu tố không hoàn lại” (còn gọi là “thành tố hỗ trợ”) đạt ít nhất 35% đối với các khoản vay có ràng buộc và 25% đối với các khoản vay không ràng buộc;

- ODA vay hỗn hợp: là các khoản viện trợ không hoàn lại hoặc các khoản vay ưu đãi được cung cấp đồng thời với các khoản tín dụng thương mại, nhưng tính chung lại có “yếu tố không hoàn lại” đạt ít nhất 35% đối với các khoản vay có ràng buộc và 25% đối với các khoản vay không ràng buộc.

b. Theo phương thức cung cấp:

- ODA hỗ trợ dự án: là hình thức chủ yếu của ODA để thực hiện các dự án cụ thể. Nó có thể là hỗ trợ cơ bản hoặc hỗ trợ kỹ thuật, có thể là cho không hoặc cho vay ưu đãi.

- ODA phi dự án: Bao gồm các loại hình sau:

+ Hỗ trợ cán cân thanh toán: thường là hỗ trợ tài chính trực tiếp (chuyển giao tiền tệ) hoặc hỗ trợ hàng hóa, hỗ trợ nhập khẩu. Ngoại tệ hoặc hàng hóa được chuyển qua hình thức này có thể được sử dụng để hỗ trợ ngân sách.

+ Hỗ trợ trả nợ (hỗ trợ ngân sách).

- ODA hỗ trợ chương trình: là khoản vốn ODA dành cho một mục đích tổng quát với thời gian nhất định mà không phải xác định một cách chính xác nó sẽ được sử dụng như thế nào.

c. Theo Nhà tài trợ

- ODA song phương: là vốn ODA của Chính phủ một nước cung cấp cho Chính phủ nước tiếp nhận. Thông thường vốn ODA song phương được tiến hành khi một số điều kiện ràng buộc của nước cung cấp vốn ODA được thoả mãn.

- ODA đa phương: là vốn ODA của các tổ chức quốc tế cung cấp cho Chính phủ nước tiếp nhận. So với vốn ODA song phương thì vốn ODA đa phương ít

chịu ảnh hưởng bởi các áp lực thương mại, nhưng đôi khi lại chịu những áp lực mạnh hơn về chính trị.

d. Căn cứ theo mục đích

- Hỗ trợ cơ bản: Là những nguồn lực được cung cấp để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội và môi trường. Đây thường là những khoản cho vay ưu đãi.

- Hỗ trợ kỹ thuật: Là những nguồn lực dành cho chuyển giao tri thức, công nghệ, xây dựng năng lực, tiến hành nghiên cứu cơ bản hay nghiên cứu tiền đầu tư, phát triển thể chế và nguồn nhân lực… hình thức hỗ trợ này chủ yếu là viện trợ không hoàn lại.

e. Căn cứ theo điều kiện

- ODA không ràng buộc nước nhận: việc sử dụng nguồn tài trợ không bị ràng buộc bởi nguồn sử dụng hay mục đích sử dụng.

- ODA có ràng buộc nước nhận:

+ Bởi nguồn sử dụng: Có nghĩa là việc mua sắm hàng hóa, trang thiết bị hay dịch vụ bằng nguồn vốn ODA chỉ giới hạn cho một số công ty do nước tài trợ sở hữu hoặc kiểm soát (đối với viện trợ song phương) hoặc các công ty của các nước thành viên (đối với viện trợ đa phương).

+ Bởi mục đích sử dụng: Chỉ được sử dụng cho một số lĩnh vực nhất định hoặc một số dự án cụ thể.

1.1.3. Đặc điểm vốn hỗ trợ phát triển chính thức

Thứ nhất, vốn ODA có tính chất ưu đãi cao.

Ngoài các khoản viện trợ không hoàn lại, các khoản vay ưu đãi có lãi suất vay vốn thường ở mức dưới 3%, thấp hơn rất nhiều so với lãi suất vay thông thường trên thị trường tài chính quốc tế. Thời gian sử dụng vốn dài, thường từ 20 đến 50 năm với thời gian ân hạn từ 5 đến 10 năm. Thời gian giải ngân, trả gốc và lãi được chia nhỏ thành nhiều giai đoạn và được áp dụng những tỷ lệ khác nhau. Như các khoản vay của Việt Nam với WB hay ADB đều có giá trị lớn, dài hạn (từ 20 - 40 năm) với lãi suất ưu đãi (từ 0 - 2%/năm) và thời gian ân hạn dài (5 - 10 năm) là nguồn vốn quý giá giúp Việt Nam đầu tư vào các dự án phát triển cơ sở

hạ tầng trọng điểm của đất nước. WB và ADB đều tập trung vào các lĩnh vực được đặt ưu tiên cao như: nông nghiệp và phát triển nông thôn, thủy lợi, năng lượng, cơ sở hạ tầng đô thị và nông thôn, giao thông, y tế và giáo dục. Các dự án của WB và ADB đóng góp tích cực và có hiệu quả vào việc nâng cấp cơ sở hạ tầng kinh tế, phát triển các dịch vụ xã hội, tăng cường thể chế và phát triển nguồn nhân lực, quản lý tài nguyên thiên nhiên. Bên cạnh đó, WB, ADB và IMF còn cung cấp các chương trình hỗ trợ chính sách nhằm giúp Việt Nam cải cách và xây dựng chính sách tổng thể trong các lĩnh vực đầu tư công, cải cách nền kinh tế, xóa đói giảm nghèo, tài chính ngân hàng, năng lượng, tăng cường năng lực. Những hỗ trợ của WB, ADB và IMF đã góp phần cải cách phát triển kinh tế, xây dựng cơ sở hạ tầng và xóa đói, giảm nghèo ở Việt Nam.

Tính chất ưu đãi của vốn ODA còn được thể hiện ở chỗ, nó chỉ dành riêng cho các nước đang và chậm phát triển có GDP bình quân trên đầu người thấp. Quốc gia có GDP/người càng thấp thì tỷ lệ viện trợ không hoàn lại của vốn ODA càng lớn, khả năng vay với lãi suất thấp và thời gian ưu đãi càng cao. Chính vì vậy, vốn ODA được xem là nguồn vốn hỗ trợ tăng trưởng dài hạn và xóa đói giảm nghèo cho các nước chậm và đang phát triển.

Quan hệ hợp tác phát triển giữa Việt Nam và các nhà tài trợ hiện đang có những điều chỉnh nhất định về chính sách để phù hợp với bối cảnh mới của Việt Nam khi trở thành quốc gia có mức thu nhập trung bình thấp: thay đổi về chính sách viện trợ; thay đổi về cơ cấu nguồn vốn viện trợ; và thay đổi về phương thức hợp tác phát triển. Về chính sách viện trợ, trong quá khứ, là nước thu nhập thấp, Việt Nam đã được hưởng những ưu đãi của ODA trong thời kỳ 1993 - 2010. Do vậy, sự thay đổi đầu tiên của chính sách viện trợ của các nhà tài trợ đối với Việt Nam có thể nhận thấy được là quy mô vốn ODA ưu đãi, bao gồm viện trợ không hoàn lại và vay ưu đãi giảm dần và trên thực tế, sau khi đạt đỉnh vào năm 2009, cam kết vốn ODA cho Việt Nam bắt đầu xu thế giảm dần. Về cơ cấu nguồn viện trợ, nguồn vốn viện trợ không hoàn lại và các khoản vốn vay ưu đãi cho Việt Nam có xu hướng giảm dần, mở ra các kênh tín dụng mới có điều kiện cho vay kém ưu đãi hơn với lãi suất sát với lãi suất thị trường vốn, thời gian ân hạn và thời gian

trả nợ ngắn hơn. Thuật ngữ “vốn vay kém ưu đãi” của nhà tài trợ tương ứng với thuật ngữ “vốn vay ưu đãi” sử dụng trong Luật quản lý nợ công của Việt Nam. Về phương thức hợp tác phát triển, một số nhà tài trợ chuyển đổi hình thức quan hệ hợp tác phát triển chính thức với Chính phủ Việt Nam sang hỗ trợ trực tiếp để phát triển quan hệ hợp tác giữa các đối tác của hai bên như quan hệ trực tiếp giữa các trường đại học, các viện hoặc trung tâm nghiên cứu, các tổ chức xã hội,... tăng cường áp dụng tiếp cận chương trình, ngành, hỗ trợ ngân sách chung và hỗ trợ ngân sách có mục tiêu; khuyến khích sự tham gia vào quá trình phát triển của các tổ chức phi chính phủ; hỗ trợ khu vực tư nhân tham gia đầu tư phát triển các lĩnh vực công, nhất là đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế và xã hội; phân công lao động và hỗ trợ lẫn nhau trên cơ sở lợi thế so sánh giữa các nhà tài trợ.

Thứ hai, vốn ODA thường đi kèm các điều kiện rằng buộc.

Xét về khía cạnh kinh tế, khi viện trợ vốn ODA các quốc gia viện trợ nói chung đều không quên đi lợi ích dành cho mình. Như WB và IMF chỉ viện trợ cho các quốc gia khi đã có những cam kết thực hiện điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo tiêu chuẩn và tiến trình mà các tổ chức này yêu cầu. Hay như các dự án ODA của Nhật Bản, vốn vay ODA Nhật Bản ràng buộc được gọi là “Điều khoản đặc biệt dành cho Đối tác kinh tế (STEP)”. Điều kiện chính của khoản vay STEP là: Nhà thầu chính sẽ là các công ty Nhật hoặc liên doanh giữa công ty Nhật và Công ty quốc gia nhận viện trợ. Và không dưới 30% hàng hóa sẽ có xuất xứ từ Nhật Bản. Các khoản vay STEP chỉ được dành cho các dự án có yêu cầu công nghệ tiên tiến từ Nhật Bản.

Trên thực tế, các nguồn vốn ODA ưu đãi thường kèm theo những điều kiện như chỉ định thầu, ưu tiên nhà thầu nước ngoài, yêu cầu mua máy móc, thiết bị, vật liệu từ quốc gia tài trợ vốn ODA. Mức lương chuyên gia, phí thu xếp vốn vay cao, điều kiện ràng buộc về xuất xứ hàng hóa và nhà thầu, hay quy định riêng về lãi suất giữa các dự án đấu thầu của đối tác... nên chi phí đầu tư thực tế thường tăng hơn rất nhiều so với dự toán ban đầu.

Ngoài những rằng buộc về kinh tế, vốn ODA luôn chứa đựng những rằng buộc về chính trị, xã hội. Quốc gia viện trợ vốn ODA vừa muốn xuất khẩu hàng hóa dịch vụ tư vấn vào nước nhận viện trợ, vừa gây ảnh hưởng về chính trị. Họ sử dụng vốn

Xem tất cả 135 trang.

Ngày đăng: 26/02/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí