Chế Độ Tự Chủ, Tự Chịu Trách Nhiệm Của Đơn Vị Sự Nghiệp Có Thu


1.1.1.2 Phân loại đơn vị sự nghiệp có thu

Đơn vị sự nghiệp có thu có vai trò tự chủ trong điều hành hoạt động của đơn vị, trong quản lý tài chính và xã hội hóa nguồn lực để phát triển các hoạt động sự nghiệp. Trong quá trình hoạt động, đơn vị được phép thu một số khoản phí hoặc thu từ các hoạt động sản xuất cung ứng dịch vụ để bù đắp một phần hoặc toàn bộ chi phí hoạt động, vừa tạo nguồn tích lũy cho các hoạt động phát triển chung. Mức tự đảm bảo kinh phí của các đơn vị sự nghiệp được tính bằng công thức sau


Mức tự đảm bảo chi hoạt động thường xuyên của đơn vị sự nghiệp


Theo khả năng đảm bảo kinh phí hoạt động, đơn vị sự nghiệp chia thành 2 nhóm:

Nhóm 1-Đơn vị sự nghiệp do ngân sách nhà nước đảm bảo toàn bộ kinh phí hoạt động; Nhóm 2 – Đơn vị sự nghiệp có thu, trong đó có đơn vị sự nghiệp tự đảm bảo một phần kinh phí hoạt động (mức tự đảm bảo chi hoạt động thường xuyên dưới 100%) và đơn vị sự nghiệp tự đảm bảo kinh phí hoạt động (mức tự đảm bảo chi hoạt động thường xuyên trên 100%).

Việc phân loại đơn vị sự nghiệp theo quy định trên được ổn định trong thời gian 3 năm. Sau thời hạn 3 năm sẽ xem xét phân loại lại cho phù hợp.


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 115 trang tài liệu này.

Các loại đơn vị sự nghiệp

ĐVSN do ngân sách nhà nước đảm bảo toàn bộ kinh phí hoạt động

Nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý tài chính tại Đài truyền hình thành phố Hồ Chí Minh trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa - 3

ĐVSN có thu

ĐVSN tự đảm bảo một phần KP hoạt động

ĐVSN tự đảm bảo KP hoạt động


Hình 1.2 PHÂN LOẠI ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP THEO KHẢ NĂNG ĐẢM BẢO KINH PHÍ HOẠT ĐỘNG

1.1.1.3 Đặc điểm của đơn vị sự nghiệp có thu:

Thứ nhất, sản phẩm hoạt động của các đơn vị sự nghiệp có thu là những dịch vụ thiết yếu đáp ứng nhu cầu của xã hội mà không ai ngoài nhà nước phải đứng ra đảm nhiệm. Sự tồn tại các tổ chức sự nghiệp là để thực hiện vai trò và chức năng xã hội của nhà nước, nó là một bộ phận của khu vực công, sứ mệnh của nó là phục vụ toàn thể xã hội, vì lợi ích của cộng đồng, mọi công dân đều có cơ hội như nhau được tiếp cận các dịch vụ của nó.

Thứ hai, việc cung ứng các dịch vụ công này không nhằm mục tiêu lợi nhuận. Việc trao đổi dịch vụ công giữa các đơn vị sự nghiệp và các tổ chức, cá nhân không thông qua quan hệ thị trường đầy đủ, nghĩa là nó không giống với hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp.

Thứ ba, hoạt động của các đơn vị sự nghiệp có thu không trực tiếp phục vụ cho quản lý hành chính nhà nước, không mang tính quyền lực pháp lý như hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước. Nó được phân biệt với hoạt động quản lý nhà nước.

Thứ tư, đơn vị sự nghiệp có thu có nguồn thu thường xuyên từ hoạt động sự nghiệp mang lại nguồn thu cho ngân sách nhà nước và được tự chủ về mặt tài chính, không phụ thuộc vào cơ chế xin cho như cơ quan hành chính thuần túy.


1.1.1.4 Chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm của đơn vị sự nghiệp có thu

Chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm của đơn vị sự nghiệp có thu hiện nay được quy định theo nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 của chính phủ và thông tư 71/2006/TT-BTC ngày 9/8/2006. Theo đó quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định thành lập. Đơn vị thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm phải là đơn vị dự toán độc lập, có con dấu và tài khoản riêng, tổ chức bộ máy kế toán theo quy định của Luật Kế toán.

Bản chất của việc trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm thể hiện trên hai mặt: Thứ nhất, đó là quá trình tự do hóa cho khu vực sự nghiệp, giải phóng khu vực này khỏi phần lớn những ràng buộc mang tính chất mệnh lệnh của bộ máy quản lý hành chính. Thứ hai, đồng thời với tự do hóa là quá trình tạo lập các quyền hạn cho loại hình tổ chức sự nghiệp để nó trở thành một thực thể kinh tế độc lập có thể tồn tại và phát triển trong điều kiện cơ chế thị trường.

Mục tiêu của việc trao quyền tự chủ phải thực sự tạo ra được lợi ích cho đơn vị sự nghiệp, cho những cán bộ, nhân viên của nó thông qua sự điều tiết của thị trường. Lợi ích thu được và được hưởng này chính là động lực đối với tổ chức sự nghiệp, đó cũng chính là ý nghĩa thực chất của việc trao quyền tự chủ

Cơ chế giám sát đối với quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm thể hiện qua việc các tổ chức sự nghiệp cùng một lúc phải chịu sự điều tiết từ 2 phía: Từ nhà nước và từ cơ chế thị trường. Quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm như thế nào đi nữa, các đơn vị sự nghiệp cũng không thể hoàn toàn tự do hành động; sự tồn tại không tách rời khu vực công và sự điều tiết từ phía khu vực công đối với các tổ chức sự nghiệp là cơ sở cho sự tồn tại của quyền giám sát của nhà nước, của xã hội đối với các tổ chức sự nghiệp.

Quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức sự nghiệp công cần phải được hiểu và quy về là quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của người đứng đầu tổ chức. Và


cơ chế quản lý đối với tổ chức sự nghiệp dịch vụ công thực tế chủ yếu là cơ chế quản lý đối với người đứng đầu tổ chức.

1.1.2 Quản lý tài chính tại các đơn vị sự nghiệp và sự nghiệp có thu

1.1.2.1 Khái quát về quản lý

Thuật ngữ quản lý được giải thích bằng nhiều cách khác nhau và có thể nói là chưa có một định nghĩa nào được tất cả mọi người chấp nhận hoàn toàn. Các trường phái quản lý học đã đưa ra những định nghĩa về quản lý như sau:

- Mary Parker Follett cho rằng “Quản lý là nghệ thuật đạt được mục đích thông qua người khác”.

- Fayel: "Quản lý là một hoạt động mà mọi tổ chức (gia đình, doanh nghiệp, chính phủ) đều có, nó gồm 5 yếu tố tạo thành là: kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo, điều chỉnh và kiểm soát. Quản lý chính là thực hiện kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo điều chỉnh và kiểm soát ấy”.

Có thể nói, bản chất của quản lý là theo đuổi năng suất, hiệu quả nên đối tượng quản lý không chỉ có con người mà còn bao gồm tài chính, vật chất. Quản lý không chỉ xử lý quan hệ giữa người với người mà còn phải xử lý mối quan hệ tài chính và vật chất, giữa vật chất và con người, giữa con người và tài chính thông qua chức năng của quản lý là hoạch định, tổ chức, điều khiển, và kiểm soát các nguồn lực của tổ chức.

1.1.2.2 Quản lý tài chính tại các đơn vị sự nghiệp và đơn vị sự nghiệp có thu

Tài chính là một trong những đối tượng của hoạt động quản lý. Do đó hoạt động quản lý tài chính cũng không nằm ngoài những nguyên lý cơ bản của hoạt động quản lý nói chung. Có thể khái quát khái niệm quản lý tài chính như sau: Quản lý tài chính là làm cho hoạt động tài chính hướng tới mục tiêu được hoàn thành với hiệu quả cao, thông qua các chức năng hoạch định, tổ chức, điều khiển và kiểm soát nguồn lực tài chính.

Về nội dung quản lý tài chính là quản lý các hoạt động huy động, phân bổ và sử dụng các nguồn lực tài chính bằng những phương pháp tổng hợp và biện pháp khác nhau, thực hiện trên cơ sở vận dụng các quy luật khách quan về kinh tế - tài


chính phù hợp với điều kiện thực tế của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Về phương pháp quản lý tài chính là việc sử dụng các công cụ quản lý tài chính nhằm phản ánh chính xác tình hình tài chính của một đơn vị, thông qua đó phân tích điểm mạnh, điểm yếu của nó. Lập kế hoạch quản lý và sử dụng các nguồn tài chính nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động cho đơn vị.

1.1.2.3 Mục tiêu của công tác quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp có thu.

Mục tiêu của quản lý tài chính trong một đơn vị, tổ chức được quyết định bởi mục tiêu thành lập doanh nghiệp và chủ sở hữu của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp kinh doanh thì mục tiêu rõ ràng là tối đa hóa lợi nhuận, tối đa hóa giá trị doanh nghiệp. Đối với các đơn vị sự nghiệp có thu, mục tiêu của quản lý tài chính là thực hiện tốt nhiệm vụ kinh tế - xã hội do nhà nước giao với chi phí thấp nhất, đồng thời với việc tạo nguồn tích lũy tối đa để duy trì hoạt động và có nguồn vốn phát triển.

1.1.2.4 Công cụ quản lý tài chính

1/Luật pháp và chính sách

Đây là bộ phận của chính sách tài chính quốc gia, là căn cứ để các đơn vị sự nghiệp xây dựng cơ chế quản lý tài chính của đơn vị mình. Nếu cơ chế quản lý tài chính của nhà nước phù hợp với yêu cầu hoạt động và phát triển của một đơn vị, tổ chức, nó sẽ tạo động lực nâng cao tính hiệu quả trong hoạt động quản lý ở đơn vị, tổ chức đó.

2/ Kế hoạch hoạt động và kế hoạch tài chính của đơn vị sự nghiệp

Kế hoạch hoạt động phải thể hiện tất cả các hạng mục hoạt động trong năm, trên cơ sở đó hình thành các kế hoạch tài chính. Kế hoạch tài chính là cơ sở để nhà nước thực hiện cơ chế giám sát và đánh giá hiệu quả hoạt động của đơn vị.

3/ Quy chế chi tiêu nội bộ

Xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ không nằm ngoài mục tiêu quản lý và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực tài chính tại đơn vị. Thông qua quy chế chi tiêu nội bộ sẽ quản lý tập trung và thống nhất các nguồn thu, đảm bảo các khoản chi được


thống nhất trong toàn đơn vị cũng như thống nhất qua các năm của một giai đoạn ổn định tài chính, hướng đến mục tiêu tiết kiệm, hợp lý. Ngoài ra quy chế chi tiêu nội bộ cũng là công cụ kiểm soát của nhà nước đối với tài chính của đơn vị.

4/ Kế toán, kiểm toán

Bộ máy kế toán, kiểm toán sẽ phản ánh trung thực tình hình thu – chi, biến động của các nguồn lực tài chính, thu thập, xử lý và cung cấp các thông tin cần thiết về tình hình tài chính của đơn vị, giúp cho đơn vị quản lý và sử dụng các nguồn tài chính một cách chặt chẽ và hiệu quả.

5/ Kiểm tra, thanh tra.

Kiểm tra, thanh tra tại các đơn vị sự nghiệp có thu có tác dụng tăng cường hiệu quả của công tác quản lý tài chính, thúc đẩy việc thực hiện kế hoạch của đơn vị, đảm bảo tính chính xác, hợp lý trong quản lý thu chi từ đó tăng tính hiệu quả của nguồn vốn đầu tư và thực hành tiết kiệm. Công tác kiểm tra, thanh tra còn có tác dụng thúc đẩy đơn vị thực hiện nghiêm chính sách, chế độ và kỷ luật tài chính của nhà nước.

6/ Trình độ quản lý của cán bộ chủ chốt

Trình độ quản lý của lãnh đạo đơn vị mà quan trọng nhất là người đứng đầu đơn vị tác động rất lớn đến cơ chế quản lý tài chính của đơn vị đó. Người đứng đầu hay thủ trưởng đơn vị có vai trò quan trọng trong việc xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ, quyết định việc xây dựng dự toán, quy định mức tiền lương và trích lập quỹ của đơn vị.

1.1.2.5 Nội dung của Quản lý tài chính tại các đơn vị sự nghiệp có thu:

Quản lý tài sản

Quản lý tài sản tại các đơn vị sự nghiệp có thu là một nội dung trong công tác quản lý tài sản công, được quy định tại luật số 09/2008/QH12. Theo đó nguồn hình thành tài sản là do nhà nước giao tài sản bằng hiện vật, quyền sử dụng đất, nhà nước giao ngân sách để đầu tư xây dựng, mua sắm tài sản và tài sản được đầu tư xây dựng, mua sắm bằng tiền có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước.


Đơn vị sự nghiệp có thu được nhà nước xác định giá trị tài sản để giao cho đơn vị quản lý theo cơ chế giao vốn cho doanh nghiệp. Đơn vị được sử dụng tài sản nhà nước vào mục đích sản xuất, kinh doanh dịch vụ, cho thuê, liên doanh, liên kết với điều kiện đơn vị phải bảo toàn , phát triển vốn và tài sản nhà nước được giao, đồng thời thực hiện nghĩa vụ tài chính với nhà nước theo quy định của pháp luật. Việc sử dụng tài sản vào các mục đích trên phải đảm bảo không ảnh hưởng đến chức năng nhiệm vụ được giao, sử dụng đúng mục đích đầu tư, mua sắm, phát huy công suất và hiệu quả sử dụng tài sản, thực hiện theo cơ chế thị trường và tuân thủ các quy định của pháp luật có liên quan.

Đối với tài sản cố định sử dụng vào hoạt động dịch vụ phải thực hiện trích khấu hao thu hồi vốn theo quy định áp dụng cho các doanh nghiệp nhà nước. Số tiền trích khấu hao tài sản cố định và tiền thu từ thanh lý tài sản thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước đơn vị được để lại bổ sung Quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp.

Số tiền trích khấu hao, tiền thu thanh lý tài sản thuộc nguồn vốn vay được dùng để trả nợ vay. Trường hợp đã trả đủ nợ vay, đơn vị được để lại bổ sung Quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp đối với số còn lại.

Quản lý chi

Nội dung chi của đơn vị sự nghiệp có thu gồm có chi thường xuyên, chi không thường xuyên, trong đó:

1. Chi thường xuyên; gồm: Chi hoạt động theo chức năng, nhiệm vụ được cấp có thẩm quyền giao; Chi phục vụ cho việc thực hiện công việc, dịch vụ thu phí, lệ phí; Chi cho các hoạt động dịch vụ (kể cả chi thực hiện nghĩa vụ với ngân sách nhà nước, trích khấu hao tài sản cố định theo quy định, chi trả vốn, trả lãi tiền vay theo quy định của pháp luật).

2. Chi không thường xuyên; gồm: Chi thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ; Chi thực hiện chương trình đào tạo bồi dưỡng cán bộ, viên chức; Chi thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia; Chi thực hiện các nhiệm vụ do nhà nước đặt hàng (điều tra, quy hoạch, khảo sát, nhiệm vụ khác) theo giá hoặc khung giá do nhà nước quy định; Chi vốn đối ứng thực hiện các dự án có nguồn vốn nước ngoài


theo quy định; Chi thực hiện các nhiệm vụ đột xuất được cấp có thẩm quyền giao; Chi thực hiện tinh giản biên chế theo chế độ do nhà nước quy định (nếu có); Chi đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm trang thiết bị, sửa chữa lớn tài sản cố định thực hiện các dự án được cấp có thẩm quyền phê duyệt; Chi thực hiện các dự án từ nguồn vốn viện trợ nước ngoài; Chi cho các hoạt động liên doanh, liên kết...

Sử dụng nguồn tài chính, thủ trưởng được quyền tự chủ trong các vấn đề quyết định mức chi thường xuyên, trong phương thức khoán chi phí để đảm bảo hiệu quả hoạt động, cụ thể:

1. Căn cứ vào nhiệm vụ được giao và khả năng nguồn tài chính, đối với các khoản chi thường xuyên thủ trưởng đơn vị được quyết định một số mức chi quản lý, chi hoạt động nghiệp vụ cao hoặc thấp hơn mức chi do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định.

2. Căn cứ tính chất công việc, thủ trưởng đơn vị được quyết định phương thức khoán chi phí cho từng bộ phận, đơn vị trực thuộc.

Riêng đối với các khoản tiền lương, tiền công, là phần đơn vị trực tiếp chi trả cho người lao động được quy định cụ thể như sau:

a) Đối với những hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ nhà nước giao, chi phí tiền lương, tiền công cho cán bộ, viên chức và người lao động, đơn vị tính theo lương cấp bậc, chức vụ do nhà nước quy định;

b) Đối với những hoạt động cung cấp sản phẩm do nhà nước đặt hàng có đơn giá tiền lương trong đơn giá sản phẩm được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt, đơn vị tính theo đơn giá tiền lương quy định. Trường hợp sản phẩm chưa được cơ quan có thẩm quyền quy định đơn giá tiền lương, đơn vị tính theo lương cấp bậc, chức vụ do nhà nước quy định;

c) Đối với những hoạt động dịch vụ có hạch toán chi phí riêng, thì chi phí tiền lương, tiền công cho người lao động được áp dụng theo chế độ tiền lương trong doanh nghiệp nhà nước. Trường hợp không hạch toán riêng chi phí, đơn vị tính theo lương cấp bậc, chức vụ do nhà nước quy định.

Xem tất cả 115 trang.

Ngày đăng: 08/12/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí