các doanh nghiệp có website đều thuộc lĩnh vực dịch vụ. Điều này phản ánh đúng đặc thù của ngành dịch vụ, bởi đây là lĩnh vực đòi hỏi hàm lượng thông tin cao cũng như khả năng tương tác giữa khách hàng với nhà cung cấp. Thực tế cho thấy, các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ luôn tỏ ra năng động, nhanh nhạy hơn so với doanh nghiệp sản xuất trong việc khai thác các ứng dụng của Internet nói chung và của website nói riêng.
Bảng 5: Tỷ lệ doanh nghiệp có website phân theo lĩnh vực kinh doanh năm 2007
Tỷ lệ có website | |
Dệt may, da giày | 40,0% |
Nông lâm thủy sản, chế biến thực phẩm | 40,6% |
Thủ công mỹ nghệ | 26,3% |
Cơ khí máy móc, hóa chất, xây dựng | 33,8% |
Dịch vụ CNTT và TMĐT | 54,3% |
Du lịch | 65,2% |
Tư vấn, bất động sản | 51,5% |
Ngân hàng, tài chính | 88,9% |
TM-DV, dịch vụ tổng hợp | 32,6% |
Các lĩnh vực khác | 44,8% |
Có thể bạn quan tâm!
- Cơ Sở Hạ Tầng Viễn Thông Và Công Nghệ Thông Tin
- Cơ Sở Nguồn Nhân Lực Cho Thương Mại Điện Tử
- Áp Dụng Thương Mại Điện Tử Trong Hoạt Động Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp Việt Nam
- Nâng cao hiệu quả áp dụng thương mại điện tử trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp Việt Nam - 10
- Đánh Giá Về Tỷ Trọng Đầu Tư Cho Thương Mại Điện Tử Trên Tổng Chi Phí Hoạt Động Hàng Năm Của Các Doanh Nghiệp Việt Nam
- Đánh Giá Về Trở Ngại Cho Ứng Dụng Thương Mại Điện Tử Của Doanh Nghiệp Việt Nam
Xem toàn bộ 120 trang tài liệu này.
Nguồn: Báo cáo TMĐT năm 2007 của Bộ Công thương
Xét về đặc điểm và tính năng, năm 2007, chất lượng của các website đã có nhiều tiến bộ đáng kể so với năm 2006. Trước hết là tính năng giao dịch thương mại điện tử được nâng cấp rõ rệt. Gần 36,7% website đã cho phép tương tác đặt hàng, so với con số 27,4% của năm 2006. Tỷ lệ website có tính năng thanh toán trực tuyến cũng tăng nhanh, từ 3,2% lên 4,8%. Dịch vụ siêu thị điện tử vẫn được nhiều doanh nghiệp cung cấp, nhưng các mặt hàng kinh doanh chuyên biệt đã bắt đầu chiếm ưu thế, phổ biến nhất hiện nay là thiết bị điện tử viễn thông và hàng tiêu dùng. Bên cạnh đó, nhóm hàng nông lâm thủy sản và cơ khí máy móc cũng đang vươn lên vị trí hàng đầu với tần suất xuất hiện ngày càng tăng trên các kênh tiếp thị trực tuyến. Các sản phẩm du lịch vẫn chiếm vị trí hàng đầu về mức độ phổ biến trên website doanh nghiệp.
Điều này phù hợp với xu thế hội nhập quốc tế cao và tốc độ tăng trưởng nhanh của ngành du lịch nói chung và du lịch trực tuyến nói riêng.
Bảng 6: Đặc điểm và tính năng thương mại điện tử của website doanh nghiệp
2006 | 2007 | |
Tính năng của website | ||
Giới thiệu doanh ngiệp | 98,3% | 84,5% |
Giới thiệu sản phẩm | 62,5% | 79,4% |
Giao dịch TMĐT | 27,4% | 36,7% |
Thanh toán trực tuyến | 3,2% | 4,,8% |
Đối tượng khách hàng hướng tới | ||
Khách hàng doanh nghiệp | 76,4% | 84,8% |
Khách hàng cá nhân | 68,7% | 68,8% |
Sản phẩm, dịch vụ trên website | ||
Thiết bị điện tử và viễn thông | 13,4 | 12,6 |
Hàng tiêu dùng | 8,0 | 12,5 |
Sản phẩm cơ khí máy móc | 8,3% | 11,9% |
Dịch vụ du lịch | 7,2% | 11,7% |
Hàng hóa tổng hợp (Siêu thị điện tử) | 7,2% | 11,4% |
Nông lâm thủy sản | 5,4% | 10,9% |
Dịch vụ luật, tư vấn | 6,0% | 8,4% |
Hàng thủ công mỹ nghệ | 4,9% | 7,8% |
Dệt may, giày dép | 4,2% | 7,6% |
Sách, văn hóa phẩm, quà tặng | 2,0% | 4,5% |
Hàng hóa số hóa (phần mềm, nhạc…) | 3,2% | 3,2% |
Một website có thể có nhiều hơn một tính năng hoặc hướng tới cả 2
nhóm đối tượng khách hàng
Về việc cập nhật website, năm 2007 đã chứng kiến sự tiến bộ về nhận thức của doanh nghiệp trong vấn đề quản lý và cập nhật thông tin trên website. Doanh nghiệp đã nhìn thấy rõ vai trò của website như một kênh giao tiếp tương tác thường xuyên với khách hàng, từ đó đầu tư thích đáng cho hoạt động ứng dụng TMĐT.
Biểu đồ 7: Tần suất cập nhật thông tin trên website của doanh nghiệp
Nguồn: Báo cáo TMĐT năm 2007 của Bộ Công thương
Xu hướng xây dựng website phục vụ hoạt động kinh doanh đang ngày trở nên phổ biến. Website được đánh giá như một công cụ bán hàng xuất sắc nhất mà doanh nghiệp có thể có, thậm chí có thể coi như một nhân viên bán hàng thực thụ nếu được doanh nghiệp quan tâm đúng mức, đầu tư thích đáng, nuôi dưỡng và phát triển cả về hình thức lẫn nội dung. Một trang web hoạt động hiệu quả hoàn toàn có thể trở thành một trong những tài sản tốt nhất mà doanh nghiệp có được bởi khả năng thúc đẩy doanh số bán hàng và tăng trưởng kinh doanh, không kém những nhân viên bán hàng tài năng.
3.1.4. Tham gia sàn giao dịch TMĐT
Việc tham gia sàn giao dịch TMĐT là một giải pháp mang tính chiến lược và đem lại hiệu quả cao. Theo kết quả điều tra của Vụ Thương mại điện tử, đã có 10,2% doanh nghiệp tham gia giao dịch trên các sàn thương mại điện tử trong và ngoài nước (năm 2006 là 7,9%); 63% đã ký được hợp đồng trong năm 2007.
Xét về lĩnh vực hoạt động, doanh nghiệp thuộc ngành du lịch, dệt may
– da giày và dịch vụ CNTT-TMĐT có mức độ tham gia sàn giao dịch tích cực nhất. Các doanh nghiệp dệt may, da giày chiếm 8,1% số doanh nghiệp tham gia sàn giao dịch; Tỷ lệ các doanh nghiệp CNTT-TMĐT và du lịch trong tổng số doanh nghiệp đã tham gia sàn lần lượt là 14,1 % và 6,1%.
Bảng 7: Mức độ tham gia sàn giao dịch của doanh nghiệp thuộc các ngành nghề khác nhau
% trong tổng số doanh nghiệp tham gia sàn | |
Dệt may, da giày | 8,1% |
Nông lâm thủy sản, chế biến thực phẩm | 6,1% |
Thủ công mỹ nghệ | 3,0% |
Cơ khí máy móc, hóa chất, xây dựng | 14,1% |
Dịch vụ CNTT và TMĐT | 17,2% |
Du lịch | 6,1% |
Tư vấn, luật, bất động sản | 6,1% |
TM-DV, dịch vụ tổng hợp, dịch v1ụ khác | 30,3% |
Sản xuất khác | 4,0% |
Nguồn: Báo cáo TMĐT năm 2007 của Bộ Công thương
3.2. Nguồn nhân lực cho công nghệ thông tin và TMĐT trong các doanh nghiệp Việt Nam
So với năm 2003 và 2004, tình hình đào tạo CNTT và TMĐT trong doanh nghiệp đã có nhiều tiến bộ, xét cả về số lượng doanh nghiệp triển khai đào tạo cũng như tỷ trọng của đào tạo trong cơ cấu đầu tư. Nếu năm 2004, chi phí cho đào tạo chỉ chiếm bình quân 12,3% tổng chi phí công nghệ thông tin của doanh nghiệp (tính chung cho các hạng mục mua sắm phần cứng, cài đặt và duy trì phần mềm, vận hành hệ thống, đào tạo, dịch vụ TMĐT, vv…), thì tỷ lệ này trong năm 2007 đã được nâng lên 20,5%. Năm 2004, có đến 28,6% số doanh nghiệp được khảo sát cho biết không tiến hành bất kỳ hình thức đào tạo công nghệ thông tin nào cho nhân viên. Năm 2007, tỷ lệ này chỉ còn 17,1%. Có thể thấy, doanh nghiệp Việt Nam đang ngày càng nhận thức rõ vai trò con người trong việc khai thác hiệu quả các ứng dụng công nghệ thông tin
– thương mại điện tử và có sự đầu tư thích đáng cho nhân tố này.
Biểu đồ 8: Tình hình đào tạo CNTT và TMĐT trong doanh nghiệp qua các năm
Nguồn: Báo cáo TMĐT năm 2007 của Bộ Công thương
Với ưu thế tiết kiệm chi phí và đem lại hiệu quả tức thời do gắn liền với yêu cầu công việc của mỗi nhân viên, hình thức đào tạo tại chỗ vẫn là một lựa chọn phổ biến (Từ năm 2005 đến 2007, tỷ lệ doanh nghiệp áp dụng hình thức đào tạo này luôn ở mức trên dưới 60%). Tuy nhiên, số doanh nghiệp kết hợp được một cách bài bản mô hình “vừa học vừa làm” với các phương thức đào tạo khác đang ngày càng gia tăng. So với 9% doanh nghiệp mở lớp đào tạo và 31% doanh nghiệp gửi nhân viên đi tham gia các khóa học ngắn hạn về CNTT năm 2004, con số 12% và 38% của năm 2007 đã cho thấy một dấu hiệu đáng khích lệ về xu hướng đào tạo chuyên sâu kỹ năm CNTT – TMĐT cho người lao động trong các doanh nghiệp.
Biểu đồ 9: Tỷ lệ nhân viên sử dụng máy tính thường xuyên cho công việc
Nguồn: Báo cáo TMĐT năm 2007 của Bộ Công thương
Để phát triển nguồn nhân lực cho công nghệ thông tin và thương mại điện tử, mấu chốt thành công không chỉ nằm ở khâu đào tạo kỹ năng công nghệ thông tin cho người lao động, mà còn thể hiện ở khả năng và điều kiện để họ thực hành, ứng dụng những kỹ năng đó trong công việc hàng ngày. Theo kết quả điều tra cho thấy gần một nửa doanh nghiệp tham gia điều tra có tỷ lệ này đạt từ 70% trở lên. Nếu lấy tỷ lệ nhân viên sử dụng máy tính thường xuyên cho công việc ở mức trên 50% là mốc đánh giá trình độ trang bị kỹ thuật và tiếp cận công nghệ thông tin của doanh nghiệp, thì đã có gần ba phần tư số doanh nghiệp đạt ngưỡng này.
Năm 2007, có 39% doanh nghiệp đã cho biết có bố trí cán bộ chuyên trách về thương mại điện tử, với mức trung bình là 2,7 người trong một doanh nghiệp, gần gấp đôi con số 1,5 người của năm 2006. Tuy nhiên, tỷ lệ doanh nghiệp có cán bộ chuyên trách về thương mại điện tử lại không chuyển biến nhiều trong 3 năm gần đây, cho thấy việc tăng số cán bộ trung bình trên một đơn vị là kết quả của sự tăng cường đầu tư trong doanh nghiệp đã triển khai ứng dụng thương mại điện tử từ những năm trước. Việc gia tăng nguồn lực này là dấu hiệu cho thấy các doanh nghiệp đã bắt đầu đánh giá được hiệu quả mà thương mại điện tử đem lại cho việc sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp mình.
Biểu đồ 13: Tỷ lệ doanh nghiệp có cán bộ chuyên trách về CNTT và TMĐT
qua các năm
Nguồn: Báo cáo TMĐT năm 2007 của Bộ Công thương
Việc bố trí nhân sự chuyên trách cho thương mại điện tử thường gắn liền với một số ứng dụng cụ thể và là hướng đi của những doanh nghiệp đã có chiến lược triển khai thương mại điện tử rõ ràng. Trong số các doanh nghiệp có cán bộ chuyên trách về TMĐT, 58,9% đã xây dựng website, gấp hơn hai lần tỷ lệ website trong những doanh nghiệp chưa bố trí cán bộ chuyên trách (25,3%). Tương tự, 18,1% doanh nghiệp có cán bộ chuyên trách về TMĐT đã
tham gia sàn giao dịch, so với 6,3% doanh nghiệp không có cán bộ chuyên trách triển khai được hoạt động này.
3.3. Hoạt động kinh doanh qua phương thức TMĐT của các doanh nghiệp Việt Nam
3.3.1. Về loại hình sản phẩm
Ngành kinh doanh dịch vụ, với đòi hỏi cao về hàm lượng thông tin và mức độ tương tác giữa khách hàng với nhà cung cấp, rất thích hợp cho môi trường TMĐT. Hiện nay, các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ đang vượt lên trước các doanh nghiệp sản xuất trong việc triển khai ứng dụng TMĐT. Đặc biệt năng động là các công ty hoạt động trong lĩnh vực thương mại, du lịch, dịch vụ công nghệ thông tin – truyền thông và vận tải giao nhận. Website của các công ty này chiếm đến 82% số trang web có tính năng hỗ trợ giao dịch TMĐT theo kết quả khảo sát năm 2005. Các sản phẩm dịch vụ cung cấp trên website khá đa dạng, và do không đòi hỏi khâu vận chuyển, sẽ chiếm ưu thế lớn so với hàng hóa trong bài toán hiệu quả của doanh nghiệp khi tiến hành triển khai TMĐT.
* Dịch vụ
Cùng với tốc độ tăng trưởng nhanh của thị trường dịch vụ tại Việt Nam, các sản phẩm dịch vụ ngày càng xuất hiện nhiều hơn trên mạng. Nhiều cấp độ cung cấp dịch vụ khác nhau được phát triển, từ việc xây dựng trang web quảng cáo, gửi thư điện tử, hoặc hình thành những dịch vụ trực tuyến thực sự. TMĐT đã trở nên khá phổ biến dưới nhiều hình thức. Thực tế kinh doanh TMĐT tiếp tục mở rộng ra những loại hình mới, trong đó tập trung đến việc cung cấp nội dung, cho các phương tiện điện tử. Mặc dù mới triển khai, nhưng các hoạt động trong lĩnh vực này đã phát triển rộng khắp và đem lại doanh thu đáng kể. Kinh doanh các dịch vụ gia tăng qua các thiết bị di động tăng nhanh, đặc biệt là các dịch vụ nhạc chuông, hình nền, tra cứu thông tin. Từ chỗ chỉ có gần như một nhà cung cấp dịch vụ duy nhất là VASC, đến nay