quan chức năng trong việc phát mại tài sản thế chấp, cầm cố... chưa có cơ chế cưỡng bắt buộc người vay vốn có nghĩa vụ giao tài sản bảo đảm cho ngân hàng xử lý, khi không có khả năng trả nợ . Điều này dẫn đến tình trạng khách hàng trây ỳ, không thực hiện nghĩa vụ trả nợ mà ngân hàng chưa thu hồi được.
- Luật doanh nghiệp nhà nước chỉ mới quy định doanh nghiệp được dùng tài sản nhà nước để thế chấp nhưng việc xử lý tài sản để thu hồi nợ khi doanh nghiệp không trả được nợ vay thì không quy định.
Pháp lệnh thống kê đến nay đã bộc lộ nhiều thiếu sót, do chưa thực sự xử lý nghiêm minh các doanh nghiệp vi phạm pháp lệnh. Thủ tục khởi kiện của ngân hàng còn rườm rà, NHNN chưa khắc phục được công tác giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ (tức là duy trì hoạt động phân tích và giám sát liên tục qua mạng máy tính đối với tất cả các TCTD trong hệ thống ngân hàng). Mặt khác, cũng giống các NHTM khác ngân hàng chưa quen trao đổi thông tin về tình hình khách hàng cho các ngân hàng bạn bởi lý do cạnh tranh nên đến nay hệ thống thông tin tại trung tâm tín dụng NHNN (CIC) chưa đáp ứng được nhu cầu của ngân hàng.
- Mặc dù đã có những động thái để tăng cường hoạt động quản lý rủi ro của các NHTM, song đến nay vẫn chưa có một hướng dẫn, quy định cụ thể nào về vấn đề này. Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN về phân loại nợ, trích lập dự phòng ra đời từ năm 2005 chỉ dừng lại ở việc hướng dẫn các NHTM thực hiện phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng. Trong đó, theo quy định tại điều 7, các NHTM chưa bắt buộc phải xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng cho đến tháng 05/2008. Như vậy, việc xếp hạng tín dụng khách hàng mới được thực hiện được khoảng 5 năm, chính vì vậy, công tác này con nhiều hạn chế do thiếu kinh nghiệm.
Nguyên nhân từ phía khách hàng
Đối với khách hàng doanh nghiệp, một thực trạng chung hiện nay ở Việt Nam là rất nhiều doanh nghiệp không tuân thủ nghiêm chế độ báo cáo tài
chính hoặc bản thân họ chưa nhận thấy tầm quan trọng và ý nghĩa của việc lập báo cáo tài chính một cách bài bản. Do vậy hầu hết các báo cáo tài chính gửi ngân hàng đều có chất lượng kém, không phản ánh đúng thức trạng tài chính và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Điều này gây khó khăn cho ngân hàng trong việc phân tích, đánh giá thực trạng khách hàng và mất thời gian để tìm hiểu và xác định lại các nội dung trong báo cáo tài chính của doanh nghiệp.Thêm nữa, hiện nay rất ít doanh nghiệp thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính. Thông thường chỉ các doanh nghiệp nhà nước bị bắt buộc kiểm toán thì mới thuê kiểm toán tài chính độc lập, còn lại phần lớn doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ không thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính. Do vậy, ngân hàng khó phát hiện các sai sót trong việc chấp hành chế độ kế toán của những doanh nghiệp này, dẫn đến thông tin sử dụng phân tích khách hàng không chính xác.
Đối với khách hàng cá nhân, tâm lý người Việt Nam là không muốn công khai thông tin về cá nhân, do vậy việc thu thập thông tin cá nhân cũng rất khó khăn cho ngân hàng.Ngoài ra tình trạng khách hàng không trung thực, cố tình gian lận thông tin và hồ sơ vay vốn giả để lừa tiền từ phía ngân hàng, khiến cho Chi nhánh khó khăn trong quá trình thẩm định.
Có thể bạn quan tâm!
- Tình Hình Dư Nợ Ngân Hàng Hợp Tác Chi Nhánh Bắc Ninh
- Tình Hình Nợ Xấu Và Nợ Quá Hạn Tại Chi Nhánh Bắc Ninh
- Đánh Giá Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Chất Lượng Tín Dụng Cho Vay Ngoài Hệ Thống Tại Ngân Hàng Hợp Tác Xã Chi Nhánh Bắc Ninh
- Định Hướng Phát Triển Của Ngân Hàng Hợp Tác Chi Nhánh Bắc Ninh Thời Gian Tới
- Cải Tiến Quy Trình Tín Dụng Nhằm Nâng Cao Chất Lượng Tín Dụng Của Chi Nhánh
- Nâng cao chất lượng tín dụng cho vay ngoài hệ thống tại Ngân hàng hợp tác Chi nhánh Bắc Ninh - 15
Xem toàn bộ 128 trang tài liệu này.
Thời gian qua, Chi nhánh Bắc Ninh đã đạt được những thành tựu nhất định như sau:
- Công tác phục vụ khách hàng có nhiều đổi mới thích hợp với nền kinh tế thị trường. Phong cách phục vụ, giao dịch, văn minh lịch sự tạo được ấn tượng, uy tín đối với khách hàne, tăng được số lượng khách hàng, mở rộng thị phần.
- Doanh số cho vay ở Chi nhánh năm sau luôn cao hơn năm trước, quy mô dư nợ không ngừng tăng trưởng. Cơ cấu cho vay nhìn chung khá đa dạng. Tín dụng ngắn hạn đáp ứng nhanh chóng nhu cầu vốn lưu động của các doanh nghiệp và cá nhân.
- Chi nhánh đã thực hiện đúng quy trình và quy chế cho vay mà Ngân hàng hợp tác xã Việt Nam đưa ra, từ đó hướng dẫn khách hàng lập hồ sơ vay vốn hợp lý, đúng quy định nhằm tạo điều kiện cho khách hàng hoàn thành các thủ tục xin vay nhanh chóng và thuận lợi.
- Trong quá trình cho vay, Chi nhánh đã thực hiện việc kiểm tra khách hàng trước, trong và sau khi cho vay. Ngoài ra, Ngân hàng còn xem xét các vấn đề thị trường, sản phẩm tiêu thụ, thu nhập,... của khách hàng trong phạm vi cho phép.
3.3.2. Nhân tố chủ quan
Nguyên nhân từ phía Chi nhánh
Bộ phận tín dụng thường phải chịu áp lực về phát triển, mở rộng khách hàng nên họ có thể phân tích khách hàng theo hướng tốt hơn so với thực tế để được phê duyệt cho vay, đảm bảo chỉ tiêu về dư nợ.
Cán bộ tín dụng phải đảm bảo tất cả các giai đoạn từ hướng dẫn lập hồ sơ, tiếp nhận và kiểm tra hồ sơ và tiến hành thẩm định tất cả nội dụng liên quan đến khách hàng như pháp lý, uy tín, tài chính, tài sản đảm bảo…Với khối lượng công việc lớn như vậy lại chịu áp lực về thời gian trả lời khách hàng đúng quy định, dẫn đến việc cán bộ tín dụng khó có đủ thời gian để thu thập thông tin đầy đủ, tình trạng phân tích sơ sài, không đánh giá đúng thực trạng của khách hàng.
Thiếu giám sát và quản lý sau cho vay
Đây cũng là đặc điểm chung của các NHTM trong nước, thường có thói quen tập trung nhiều công sức cho việc thẩm định trước cho vay mà lơi lỏng quá trính kiểm tra, kiểm soát đồng vốn sau khi cho vay. Khi NH cho vay thì khoản cho vay cần phải được quản lý một cách chủ động để đảm bảo được hoàn trả. Theo dõi nợ là một trong những trách nhiệm quan trọng nhất của cán bộ tín dụng và của NH nói chung để nhằm đảm bảo KH tuân thủ những điều khoản đề ra trong hợp đồng tín dụng, tìm ra những cơ hội kinh doanh mới và mở rộng co hội kinh doanh. Tuy nhiên trong thời gian qua Chi nhánh chưa thực hiện tốt công tác này. Điều này một phần do yếu tố tâm lý ngại gây phiền
hà cho khách hàng của các bộ tín dụng, một phần do hệ thống thông tin quản lý phục vụ kinh doanh tại các doanh nghiệp quá lạc hậu, không cung cấp được kịp thời, đầy đủ thông tin yêu cầu.
Trình độ nhân lực còn hạn chế
Đội ngũ cán bộ nhân viên ngân hàng còn chưa đồng đều về trình độ, chưa kịp thời cập nhật thông tin về những thay đổi trong nền kinh tế thị trường, còn thiếu kinh nghiệm hoạt động trong nền kinh tế hàng hóa vận hành theo cơ chế thị trường với nhiều đặc điểm và biến động lớn lao, không ngừng. Nhiều vấn đề mới về lý luận của nền kinh tế thị trường như: kỹ thuật, chiến lược marketing ngân hàng, các vấn đề kinh tế vĩ mô; khả năng phân tích dự đoán thị trường tương lai của cán bộ còn yếu và thiếu. Hơn nữa, việc ngân hàng chưa thể mạnh dạn phát triển các sản phẩm mới do cán bộ nhân viên chưa đủ trình độ để phát triển các sản phẩm đó, quảng bá nó tới doanh nghiệp và người tiêu dùng.
Sự tha hóa về đạo đức của một bộ phận nhân viên ngân hàng hiện nay, nhiều khoản vay không đủ điều kiện cho vay nhưng vì khách hàng có những hành vi đút lót để cán bộ tín đồng ý cho vay, kết quả dẫn đến tại Chi nhánh có những khoản tín dụng không đảm bảo chất lượng tín dụng.
Thứ nhất, thời gian qua tại Chi nhánh Bắc Ninh mặc dù tăng trưởng tín dụng đạt được nhiều thành tích đáng ghi nhận nhưng nợ xấu và nợ quá hạn vẫn tồn tại, thậm chí mức nợ xấu cao hơn hệ thống ngân hàng và cao hơn quy định. Chính vì vậy, về cơ bản, chất lượng tín dụng tại Chi nhánh vẫn chưa tốt, cần nâng cao chất lượng tín dụng tại Chi nhánh nhiều hơn nữa.
Thứ hai, công tác thu nợ quá hạn, nợ khó đòi đã được chưa được chú trọng đúng mức, phân loại nợ quá hạn, kiểm tra đối chiếu nợ được tiến hành thường xuyên.
Thứ ba, công tác thẩm định tại Chi nhánh còn chưa đạt hiệu quả cao, từ đó làm ảnh hưởn đến chất lượng tín dụng tại Chi nhánh, phát sinh những khoản nợ quá hạn và nợ xấu. Đây là một nghiệp vụ phức tạp, cần có những cán bộ, nhân viên có kinh nghiệm lâu năm và có năng lực mới có thể.
3.4. Đánh giá chất lượng tín dụng cho vay ngoài hệ thống tại ngân hàng hợp tác chi nhánh Bắc Ninh
3.4.1. Thành tựu
Là một trong những chi nhánh trên toàn quốc được thành lập rất sớm, do vậy hoạt động cho vay của ngân hàng hợp tác Chi nhánh Bắc Ninh đã đạt được những thành công nhất định, góp phần vào đó là hoạt động cho vay ngoài hệ thống.
- Tổng dư nợ cho vay ngoài hệ thống tăng mạnh. Năm 2012 dư nợ cho vay ngoài hệ thống là 43.551,80 triệu đồng, chiếm 83,62% tổng dư nợ. Năm 2013, dư nợ cho vay ngoài hệ thống của chi nhánh là 66.142,48 triệu đồng, tương ứng 82,40%. Năm 2014 dư nợ tín dụng tăng lên đến 77.684,90 triệu đồng, chiếm 86,15%. đây là một mức tăng trưởng khá nhanh chứng tỏ chất lượng cho vay ngoài hệ thống của chi nhánh ngày càng được nâng cao, uy tín của Chi nhánh ngày càng được củng cố.
- Tỷ lệ nợ xấu và tỷ lệ nợ quá hạn luôn ở mức an toàn, con số này rất nhỏ so với mức quy định của các NHTM, chứng tỏ bộ phận quản lý tín dụng luôn kiểm soát được tỷ lệ này. Điều này cũng chứng tỏ, các cán bộ nhân viên đã thực hiện công tác thẩm định tương đối chặt chẽ, loại bỏ những khách hàng có tư cách, mục đích không tốt. Với những khách hàng có tư cách tốt nhưng gặp khó khăn trong việc chi trả, các cán bộ đã tìm các biện pháp giúp đỡ khách hàng, xây dựng phương án hợp lí hơn.
- Thu nhập từ hoạt động cho vay ngoài hệ thống luôn chiếm một tỷ trọng ổn định trong tổng lợi nhuận của toàn chi nhánh.
- Chi nhánh cũng đã quan tâm đến việc đào tạo đội ngũ cán bộ thông qua việc thường xuyên cử nhân viên đi học, đào tạo nâng cao kiến thức chuyên môn. Đội ngũ nhân viên của Chi nhánh nói chung và bộ phận quản lý nói riêng có trình độ chuyên môn, trẻ, nhiệt tình, năng động, luôn quan tâm đến chất lượng dịch vụ, thường xuyên nhắc nhở nhau thực hiện và đặc biệt là luôn đề cao tính kỷ luật, có tinh thần đoàn kết tốt.
- Chi nhánh không ngừng nâng cao chất lượng và cải tiến công nghệ, phương tiện làm việc nên năng suất hoạt động cao và hiệu quả.
3.4.2. Hạn chế
Mặc dù dư nợ cho vay được liên tục mở rộng đi đôi với việc kiểm soát chất lượng hoạt động cho vay, độ an toàn vốn được đảm bảo, song đây vẫn chưa phải là mức độ chất lượng tốt nhất mà bộ phận quản lý hoạt động cho vay ngoài hệ thống có thể đạt được. Với tiềm năng của bộ phận quản lý, chất lượng hoạt động tín dụng cho vay ngoài hệ thống tại ngân hàng hợp tác chi nhánh Bắc Ninh còn có thể đạt được những thành tích cao hơn nữa. Bên cạnh đó, phải nói đến những khuyết điểm trong hoạt động cho vay ngoài hệ thống tại Chi nhánh.
- Năng lực thẩm định dự án, chưa theo kịp sự phát triển, trong xu thế hội nhập hiện nay: Mặc dù đã có nhiều cố gắng và đạt được những kết quả nhất định trong nghiệp vụ thẩm định nhưng xét một cách đầy đủ và toàn diện thì năng lực, kinh nghiệm thẩm định của ngân hàng hợp tác Chi nhánh Bắc Ninh còn hạn chế; việc thẩm định khách hàng, thẩm định dự án, phương án sản xuất kinh doanh, phương án tài chính phương án trả nợ…. chủ yếu xem xét trên hồ sơ, tài liệu của khách hàng gửi đến chi nhánh; việc khảo sát tình hình triển khai dự án, thẩm định thực tế còn hạn chế cả về mặt thời gian và phương pháp tiếp cận.
- Hoạt động tín dụng đầu tư vẫn để phát sinh nợ quá hạn, nợ xấu. Kết quả phân loại nợ chưa cụ thể và chưa phù hợp với diễn biến thực tế của khoản nợ, của dự án nên khi đánh giá chung không phản ảnh đúng thực chất của khoản nợ.
- Công tác giải ngân, kiểm tra, giám sát quá trình sử dụng vốn vay chưa thường xuyên và còn mang tính hình thức, chủ yếu trên giấy tờ và căn cứ vào các thông tin, số liệu, tài liệu do khách hàng cung cấp, nội dung kiểm tra còn sơ sài, việc giải ngân vốn vay chú trọng đến yêu cầu về trình tự, thủ tục nhiều hơn so với yêu cầu về chất lượng hồ sơ cũng như việc phát huy kịp thời hiệu quả sử dụng tiền vay.
- Nguồn nhân lực còn hạn chế:
Tổng dư nợ cho vay tăng mạnh qua các năm, trong khi đó số lượng cán bộ nhân viên lại không tăng không đáng kể, dẫn đến hậu quả là khả năng quản lý tín dụng tại Chi nhánh tuy hiện tại là tốt nhưng do phải quản lí và theo dõi quá nhiều khoản vay với quá nhiều khách hàng vay, khối lượng công việc mà họ phải giải quyết là quá nhiều, có thể dẫn đến những sai sót không đáng có. Vì thế, việc tăng nhanh tổng dư nợ cho vay không tương ứng với tăng các nguồn nhân lực, cộng với việc đầu tư chưa kịp thời vào công nghệ của Chi nhánh dẫn đến một số cán bộ nhân viên phải làm việc thêm giờ mà hiệu quả chưa cao. Lợi nhuận từ hoạt động cho vay trong tổng lợi nhuận của toàn Chi nhánh chiếm tỷ trọng chưa tương xứng với tiềm năng.
- Hoạt động Marketing chưa hiệu quả:
Hoạt động marketing đã được triển khai nhưng vẫn chưa được chú trọng đúng mức, một phần do hạn chế về mặt nhân lực trong khi công việc lại quá nhiều. Do đó, có nhiều khách hàng vẫn chưa hiểu rõ về hoạt động cho vay cũng như các sản phẩm cho vay, các gói tín dụng ưu đãi đối tại Chi nhánh, bên cạnh đó họ ngại đến Ngân hàng do tâm lý sợ các thủ tục phiền hà, phức tạp. Đa số các khoản vay tiêu dùng được Chi nhánh thực hiện giải ngân bằng tiền mặt, do vậy khó quản lí được mục đích vay vốn thực tế và việc sử dụng vốn vay của khách hàng. Hơn nữa, Chi nhánh chưa khuyến khích được khách hàng sử dụng dịch vụ cho vay qua thẻ của ngân hàng và việc mở rộng loại hình cho vay này cũng sẽ gặp rất nhiều khó khăn như: cho vay thấu chi, thẻ tín dụng,…
3.4.3. Nguyên nhân
- Về quy mô, uy tín của Chi nhánh: số lượng các Ngân hàng, đặc biệt là khối NHTMCP trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh ngày càng nhiều, Ngân hàng hợp tác chi nhánh Bắc Ninh phải cạnh tranh với những Ngân hàng cùng quy mô trên địa bàn, với một địa bàn nhỏ như Bắc Ninh thì sự cạnh tranh đó ngày càng gay gắt về quy mô, chất lượng dịch vụ, sự đa dạng về sản phẩm,… Vì vậy đòi hỏi Ngân hàng phải có những thế mạnh, những ưu thế nổi trội của
riêng mình trong chiến lược thu hút khách hàng. Tuy nhiên trong hoạt động cho vay ngoài hệ thống, Chi nhánh vẫn chưa tạo được cho mình nét nổi trội so với các Ngân hàng khác cùng địa bàn. Và trong môi trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay, khách hàng đang có khuynh hướng kém gắn bó với một Ngân hàng cụ thể, nhất là trong điều kiện thông tin ngày càng được phổ biến đến tận người dân thông qua nhiều kênh như tivi, sách, báo, internet,…
- Về khả năng xử lí và thu thập thông tin: việc thu thập thông tin để lưu trữ trở nên khó khăn đối với những khách hàng ở xa trụ sở của Chi nhánh bởi cán bộ tín dụng không có sẵn các đầu mối tin cậy để phân tích, nắm bắt hoặc dễ rơi vào sự sắp đặt trước của những khách hàng thiếu trung thực. Các thông tin do khách hàng lập và cung cấp nên tính chính xác và khách quan của các tài liệu này rất khó được kiểm chứng. Việc thẩm định thường dựa trên những thông tin chủ quan do khách hàng cung cấp.
- Về tổ chức bộ máy: Các cán bộ tín dụng phải thực hiện tất cả công việc từ tìm kiếm, giao dịch trực tiếp, kiểm tra hồ sơ, thẩm định, kiểm tra đối tượng vay vốn và tính khả thi của dự án, kiểm tra việc sử dụng vốn vay, đôn đốc khách hàng trả lãi và gốc đầy đủ, đúng hạn. Công việc này sẽ càng khó khăn hơn khi món vay nhiều, địa bàn rải rác.
- Tư tưởng một số cán bộ còn mang tính chông chờ ỷ lại, chưa thực sự thay đổi tư duy từ hoạt động theo cơ chế bao cấp của Nhà nước sang cơ chế thị trường cạnh tranh; đội ngũ cán bộ nghiệp vụ còn hạn chế về năng lực, khả năng và tính trách nhiệm trong công việc, cơ chế phân công, phân nhiệm, trả lương, thưởng, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chưa được chú trọng và quan tâm đúng mực.