Kinh Tế Thời Bắc Thuộc (179 Tcn - 938)

Như vậy, có thể nói, trong thời dựng nước, dân tộc ta đã đạt được những thành tựu to lớn về kinh tế, văn hoá. Trong đó, thành tựu nổi bật nhất của thời kỳ này là đã tạo nên các nền văn minh rực rỡ với các hình thái nhà nước sơ khai trên cả ba miền đất nước. Đây chính là nền tảng vững chắc đảm bảo cho sự tồn tại, phát triển của dân tộc ta trong trường kỳ lịch sử.

2.1.3. Kinh tế thời Bắc thuộc (179 TCN - 938)

Năm 179 TCN đến năm 938 là thời kỳ Bắc thuộc và chống Bắc thuộc trong lịch sử dân tộc ta. Đây là thời kỳ thách thức ác liệt nhất đối với sự tồn vong của quốc gia - dân tộc Việt Nam. Mở đầu của thời kỳ này là sự kiện Triệu Đà1 xâm chiếm nước Âu Lạc (179 TCN) và kết thúc là sự kiện Ngô Quyền đánh thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng,

mở ra kỷ nguyên độc lập, tự chủ cho dân tộc. Thời kỳ này có rất nhiều cuộc khởi nghĩa nổ ra, trong đó có những cuộc khởi nghĩa giành thắng lợi, thành lập chính quyền độc lập và tồn tại trong từng giai đoạn dài ngắn khác nhau rồi bị thất bại. Trong khoảng hơn 10 thế kỷ này, dân tộc ta bị các thế lực phong kiến phương Bắc thống trị, bóc lột.

Để cai trị và bóc lột nước ta, phong kiến phương Bắc đã chia nước ta thành các đơn vị hành chính khá phức tạp và qua nhiều lần thay đổi. Nhà Triệu chia nước Âu Lạc thành 2 quận là Giao Chỉ (Bắc Bộ) và Cửu Chân (Bắc Trung Bộ, từ Thanh Hoá đến Hà Tĩnh). Nhà Tây Hán (206 TCN - 24), sau khi chiếm nước Âu Lạc năm 111 TCN vẫn duy trì hai quận Giao Chỉ, Cửu Chân và tiến xuống phía Nam chiếm thêm một phần đất của Champa lập nên quận Nhật Nam (trung Trung Bộ, từ Quảng Bình đến Quảng Nam). Trị sở của quận Giao Chỉ là Luy Lâu, trị sở của quận Cửu Chân là Tư Phố. Năm 106 TCN, nhà Tây Hán đem 3 quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam cùng 4 quận ở Nam Trung Quốc là Nam Hải, Hợp Phố, Uất Lâm, Thương Ngô (vùng Quảng Đông, Quảng Tây, nam Trung Quốc) lập thành bộ Giao Chỉ. Đứng đầu quận là chức Thái thú, đứng đầu bộ là


1 Triệu Đà là người Trung Quốc, nhân lúc nhà Tần sụp đổ đã chiếm lấy quận Quế Lâm và quận Tượng, tự xưng là Nam Việt Vũ vương, đóng đô ở Phiên Ngung (Quảng Châu, Trung Quốc). Đến thời nhà Hán, Triệu Đà xưng đế, lập nước Nam Việt. Sau khi Cao Hậu (nhà Hán) chết, Triệu Đà lập tức uy hiếp, tìm cách xâm chiếm Âu Lạc để mở mang bờ cõi về phía nam [Vũ Duy Mền, 2017, 200].

chức Thứ sử. Đô uý trị (cơ quan quân sự) của bộ Giao Chỉ đặt tại huyện Mê Linh của quận Giao Chỉ. Sau đó đến năm 203, bộ Giao Chỉ còn được gọi là Giao Châu và trị sở vẫn đặt ở quận Giao Chỉ. Vị trí trị sở của Giao Châu tại Mê Linh chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn. Trong thời nhà Hán, Mê Linh là Đô uý trị giữ vai trò một trung tâm quân sự của cả một khu vực hành chính rộng lớn của bộ Giao Chỉ, rồi có thời gian là trị sở Giao Châu, bao gồm cả Bắc Việt Nam và Nam Trung Hoa. Như vậy, từ thời Tây Hán, trên đất nước Âu Lạc cũ đã xuất hiện ba trung tâm quyền lực của chính quyền đô hộ là: Luy Lâu, Tư Phố và Mê Linh.

Thời Đông Hán (25-220), sau khi đàn áp cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, Mã Viện đã chia lại các huyện và củng cố các trị sở cấp quận, xây dựng nhiều thành cấp huyện. Thời Đông Hán, trong các huyện của quận Giao Chỉ, huyện Long Biên được xếp đứng đầu. Sang thời Tam Quốc (220-280), đất Âu Lạc cũ bị nhà Ngô (222-280) đô hộ. Năm 226 nhà Ngô tách ba quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam ở phía Nam lập thành Giao Châu, 4 quận phía Bắc lập thành Quảng Châu. Sau đó nhà Ngô lại nhập hai châu như cũ, năm 264 tách hẳn làm hai châu. Thời Ngô, Giao Châu được chia làm 6 quận, đứng đầu là quận Giao Chỉ và huyện đứng đầu quận Giao Chỉ là Long Biên. Sau thời kỳ phân liệt từ Lưỡng Tấn (gồm Tây Tấn: 265-316 và Đông Tấn: 317-420) đến Nam - Bắc triều (420-589), Trung Quốc thống nhất với nhà Tuỳ (589-618). Trong các quận của Giao Châu, quận Giao Chỉ đứng đầu và trong quận Giao Chỉ, huyện Tống Bình đứng đầu. Trị sở của Giao Châu chuyển đến Tống Bình. Từ khi nhà Đường (618-907) lên thay nhà Tuỳ, đặt Giao Châu Đại tổng quản phủ rồi Giao Châu Đô đốc phủ, đến năm 679 đổi thành An Nam Đô hộ phủ. Thủ phủ của An Nam chuyển từ Tống Bình về An Nam La Thành hay thành Đại La. Hai trung tâm quyền lực quan trọng của thời Tuỳ, Đường là Tống Bình và An Nam La Thành (thành Đại La).

Như vậy, trong hơn ngàn năm Bắc thuộc, từ Hán đến Đường, những trung tâm quyền lực - hành chính quan trọng của chính quyền đô hộ là các thành Mê Linh, Tư Phố, Luy Lâu, Long Biên, Tống Bình và An Nam La Thành [Phan Huy Lê, 2018, 939-941]. Đây là đầu não của chính quyền đô hộ phương Bắc thống trị nước ta thời ngàn năm Bắc thuộc.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 151 trang tài liệu này.

2.1.3.1. Chính sách kinh tế của phong kiến phương Bắc

Trong hơn một ngàn năm đô hộ, các triều đại phong kiến phương Bắc đã thi hành nhiều chính sách để cai trị, bóc lột dân ta.

Lịch sử kinh tế Việt Nam Phần 1 - 5

a. Cống nạp

Cống nạp đã được thực hiện từ thời Triệu Đà, sau đó được các triều đại phong kiến phương Bắc tiếp tục duy trì. Đây là phương thức bóc lột chủ yếu của chính quyền đô hộ. Cống nạp do các Thứ sử, các quan thái thú trong bộ máy cai trị Giao Châu1 thực hiện. Bọn quan cai trị phương Bắc thường bắt dân ta cống nạp cho chúng các sản phẩm là nông - lâm -

thổ sản quý như: ngà voi, sừng tê, lông trả, đồi mồi, ngọc trai, các loại trái cây ngon; các sản phẩm thủ công mỹ nghệ giá trị và cống nạp cả thợ thủ công giỏi, tướng tài. Thời nhà Hán đô hộ, các loại quả: nhãn, vải, cam, quýt, mơ... được quan lại Hán rất thích, nên hàng năm bắt dân ta cống nạp cho triều đình. Không chỉ cống các sản phẩm là các loại quả, vua Hán còn bắt dân ta cống nạp cây vải và cây chuối tiêu để trồng ở kinh đô Tràng An. Nhà Hán còn đặt chức Tu quan ở Giao Chỉ để đốc thúc triều cống hoa quả thức ăn về Bắc triều và chức Quất quan chuyên trách việc cống quýt ngự, vơ vét các sản vật nông nghiệp nước ta là trâu bò, rượu, đường mía, tơ lụa... đưa về chính quốc.

Do chưa có quy định chung về định lượng, nên cống nạp bao nhiêu đều do những thái thú, quan lại phương Bắc tự đưa ra, rồi bắt dân ta đáp ứng. Để thỏa lòng tham của mình, nhiều quan lại cấp châu, quận đã ra sức vơ vét, chiếm đoạt của cải dân ta. Sách Hậu hán thư cho biết: "Xưa đất Giao Chỉ có nhiều sản vật quý, ngọc minh cơ, lông trả, sừng tê, ngà voi, đồi mồi, hương lạ, gỗ đẹp, thứ gì cũng có. Các Thứ sử phần lớn không thanh liêm... thu vét của cải của dân, đến khi đầy túi tiền thì xin dời đổi" [Dẫn theo Vũ Duy Mền, 2017, 251-252].

Như vậy, có thể nói, cống nạp là hình thức bóc lột "tàn bạo" và "siêu kinh tế" mà bọn cai trị phương Bắc đã thực hiện đối với dân ta. Tàn bạo


1 Giao Châu (hay Châu Giao) là tên một châu hoặc phủ thời Bắc thuộc, bao trùm vùng đất miền Bắc Việt Nam. Dưới thời nhà Hán cai trị, vùng đất Âu Lạc cũ (quận Giao Chỉ) được gộp với hai quận Cửu Chân và Nhật Nam thành đất Giao Châu [Quỳnh Cư, Đỗ Đức Hùng, 2017].

là bởi để có những cống phẩm giá trị như sừng tê, ngà voi, lông chả, đồi mồi, ngọc trai... thì người dân Lạc Việt phải lên rừng, xuống biển tìm kiếm, khai thác, đi đến những nơi nguy hiểm đến tính mạng. Còn nói bóc lột siêu kinh tế là vì định mức cống nạp không được xác định rõ ràng, ổn định mà nó phụ thuộc vào lòng tham của mỗi tên quan cai trị hay của triều đình phong kiến phương Bắc.

b. Tô thuế

Dưới thời Bắc thuộc, trong buổi đầu, quan hệ công xã nguyên thủy tiếp tục tan rã, chế độ nô lệ gia trưởng vẫn tiếp tục nảy sinh và bị chính quyền đô hộ lợi dụng để duy trì bóc lột trong phạm vi có lợi cho họ.

Trong thời Bắc thuộc, chính quyền đô hộ phương Bắc chưa thiết lập được quyền sở hữu ruộng đất trực tiếp và thực sự; nhưng đã nắm quyền sở hữu tối cao về ruộng đất, ít nhất là trên danh nghĩa của Hoàng đế Trung Quốc và với quyền lực của chính quyền đô hộ. Người nông dân thời này vốn là thành viên của công xã cày ruộng đất của công xã bị coi là cày ruộng đất thuộc quyền sở hữu tối cao của Hoàng đế Trung Hoa nên phải nộp tô thuế và làm nghĩa vụ lao dịch, binh dịch cho chính quyền đô hộ. Các chính quyền đô hộ phương Bắc bắt dân ta nộp tô thuế rất nặng nề. Từ thời Đông Hán đến Lục Triều (từ năm 25 đến cuối thế kỷ VI), dân Giao Châu ngoài cống nạp còn phải nộp các loại tô thuế theo hướng ngày càng tăng. Dưới thời nhà Hán cai trị, trong giai đoạn đầu, nhà Hán phải chở lương thực sang Giao Châu để nuôi binh lính và quan lại. Nhưng về sau, nhờ số thóc bóc lột được đã đủ để nuôi toàn bộ quan lại, quân sĩ ở Giao Châu. Sử cũ cho biết số thóc thuế mà chính quyền đô hộ thu được thời Đông Hán lên tới 13.600.000 hộc, tương đương với 272.000 tấn thóc thời nay [Vũ Duy Mền, 2017, 253].

Chính quyền đô hộ nhà Đường đã áp dụng chế độ tô - dung - điệu ở An Nam. Cụ thể nhà Đường thi hành chế độ quân điền, đinh nam từ 18 tuổi trở lên được cấp 80 mẫu ruộng khẩu phần và 20 mẫu ruộng dâu làm ruộng vĩnh nghiệp. Mỗi năm một suất đinh phải nộp tô - dung - điệu. Trong đó, tô là 2 thạch thóc, dung là 20 ngày lao dịch, điệu là 20 thước lụa và 3 lạng tơ. Tô ruộng tính theo đầu người, nhưng đó là những nông

dân nhận ruộng khẩu phần của nhà nước. Tô thời Đường là hình thái bóc lột địa tô phong kiến, dựa trên quyền sở hữu tối cao về ruộng đất của nhà nước. Từ năm 780, nhà Đường chuyển sang chế độ lưỡng thuế, mỗi năm dân nộp thuế vào hai kỳ: tháng 6 và tháng 11 [Phan Huy Lê, 2018, 335]. Với người dân sống bằng nghề biển (đánh cá, làm muối, mò ngọc trai), bọn quan lại đô hộ bắt họ phải nộp mức thuế rất nặng. Theo sách Thái Bình hoàn vũ ký, vào thời nhà Tuỳ - Đường cai trị nước ta, nhân dân vùng châu Lục (ven biển Vịnh Hạ Long) sống bằng nghề làm muối và mò ngọc trai, hàng năm mỗi hộ phải nộp 100 hộc gạo. Thứ sử Chu Phù là người tham lam, tàn bạo đã bắt dân ta phải nộp một hộc lúa cho một con cá vàng (Hoàng ngư). Có những tên quan cai trị còn bắt dân miền núi đổi một con trâu lấy một đấu muối. Ngoài thuế muối, dân ta phải nộp thuế đay, gai, bông và các thứ thuế khác. Thời nhà Đường, các thứ thuế được chính quyền quy thành tơ tằm để bắt dân nộp. Dưới thời Nam Triều, có tới hàng trăm thứ thuế, dân nghèo phải bán cả vợ con để nộp thuế. Sự bóc lột nặng nề qua các hình thức cống nạp, tô thuế đã làm dân ta lâm vào cảnh bần cùng, cực khổ, "trăm họ xác xơ".

c. Di dân, chiếm đất lập đồn điền

Hầu như các triều đại phong kiến phương Bắc đều thực hiện việc di dân Trung Quốc sang sống xen kẽ với dân ta. Mục đích của việc làm này là để một mặt khai thác, bóc lột kinh tế và mặt khác nhằm thực hiện đồng hóa, biến nước ta thành quận huyện của Trung Quốc.

Theo sử cũ cho biết, ngay từ thời Nhà Tần đã có hiện tượng người Hán di cư từ Trung Quốc vào nước ta. Sau đó, thời nhà Tây Hán, có chính sách "di dân khẩn thực", đem những người tù tội di cư hàng loạt sang Giao Chỉ. Đặc biệt, sau những biến loạn ở trong nước, nhiều sĩ phu, địa chủ Trung Quốc cũng trốn sang Giao Chỉ "lập nghiệp". Dân số Giao Chỉ ngày càng tăng lên. Theo sách Tiền Hán thư (Địa lý chí), vào thời nhà Hán cai trị, hộ khẩu của 7 quận thuộc châu Giao Chỉ có 215.488 hộ và 1.372.290 nhân khẩu. Nếu chỉ tính riêng ba quận thuộc phạm vi nước ta thì tổng số hộ khi ấy là 143.643 hộ (chiếm 66,7%) và tổng số nhân khẩu là 981.735 người (chiếm 71,5%) của châu Giao Chỉ. Trong đó, quận Giao Chỉ có 92.440 hộ, 746.237 nhân khẩu; quận Cửu Chân có

35.743 hộ, 166.013 nhân khẩu và quận Nhật Nam có 15.460 hộ, 69.485 nhân khẩu. Tuy đây chưa phải là con số thống kê có độ chính xác cao, nhưng nó cũng cho phép hình dung về vai trò trung tâm trọng yếu của khu vực đất nước ta và đặc biệt là quận Giao Chỉ (với 42,90% số hộ và 54,37% số dân) trong toàn khu vực mới chiếm được của nhà Hán [Dẫn theo Phan Huy Lê & cộng sự, Lịch sử Việt Nam, tập I, 2012, 351].

Những sĩ phu, địa chủ di cư và quan lại cai trị Giao Chỉ đã chiếm đoạt ruộng đất nước ta để lập các trại ấp, đồn điền, xây dựng kinh tế địa chủ. Đồn điền thời kỳ này chính là ruộng công, được gọi là "Quốc khố điền" (ruộng Quốc khố) do Nhà nước trực tiếp quản lý. Đến thời Ngô, chính quyền đô hộ đã đặt ra chức quan gọi là "Điền nông Đô úy" (gọi tắt là "Đô úy") để chuyên trách cai quản các đồn điền. Lực lượng sản xuất trong các trại ấp, đồn điền là những người dân bị chiếm ruộng đất cùng với các tù nhân, binh lính và những người lưu vong từ Trung Quốc sang. Những người này làm việc theo kiểu cưỡng bức, bị bóc lột qua địa tô và có thân phận thấp kém trong xã hội.

Chính sách di dân, chiếm đất lập đồn điền và bóc lột của phong kiến phương Bắc đã ít nhiều tác động, ảnh hưởng đến kinh tế - xã hội nước ta thời Bắc thuộc. Quan hệ sản xuất phong kiến thực dân bắt đầu manh nha; nền kinh tế có sự tiến bộ. Sự tiến bộ này một phần do quy luật phát triển nội tại, phần khác do sự tác động của yếu tố phong kiến phương Bắc.

2.1.3.2. Đặc điểm tình hình kinh tế

a. Nông nghiệp

Ruộng đất thời này về danh nghĩa thuộc quyền sở hữu tối cao của nhà nước phong kiến phương Bắc. Chính quyền đô hộ đã nhiều lần điều tra về dân số, lập sổ thống kê số dân theo hộ và khẩu; nhưng chưa lần nào đo đạc ruộng đất và lập sổ ruộng đất. Về cơ bản, quản lý ruộng đất và tổ chức sản xuất nông nghiệp (trừ các đồn điền, trại ấp) đều do các làng xã thực hiện.

Nhìn chung, nền kinh tế thời Bắc thuộc vẫn căn bản là kinh tế nông nghiệp, bao gồm trồng trọt và chăn nuôi. Nông nghiệp thời này phát triển nhờ sự phổ biến của kỹ thuật cày bừa bằng trâu bò và các công cụ làm

đất bằng sắt. Trong trồng trọt, cây trồng chủ đạo là lúa, bao gồm lúa tẻ và lúa nếp. Lúa tẻ được trồng để làm lương thực, còn lúa nếp chủ yếu được dùng vào việc nấu rượu.

Từ thời Mã Viện, việc đào sông đắp đê, làm thủy lợi đã được quan tâm. Thời này đã biết đắp đê sông ngăn lũ lụt và đắp đê biển ngăn nước mặn. Sách Nam Việt chí cho biết về sự kiện Mã Viện cho người lấy đá chất thành đê để ngăn sóng biển ở vùng Tạc Khẩu (nay thuộc Tam Điệp, Ninh Bình). Nhiều kênh mương được đào phục vụ nước tưới ruộng. Trước đây, người Việt cổ đã biết dùng than tro (đốt cây mà có), cỏ dại làm phân bón ruộng. Đến thời này, họ đã học được từ người Trung Quốc cách dùng phân người ("phân Bắc") và phân động vật để bón cho cây trồng và dành thời gian, công sức chăm sóc nhiều hơn. Người dân sử dụng các công cụ sắt (cày bừa, liềm hái...) kết hợp với sức kéo của trâu bò để làm ruộng. Mặc dù kỹ thuật còn ở trình độ thấp nhưng do châu thổ Bắc Bộ có điều kiện thổ nhưỡng phù hợp với cây lúa, người dân lại biết kết hợp giữa làm thủy lợi với bón phân và tăng cường chăm sóc nên năng suất lúa cao hơn trước. Ở quận Cửu Chân (Thanh Hoá), vào đầu công nguyên còn phải mua gạo của Giao Chỉ (Bắc Bộ); nhưng vào năm 123, canh tác lúa ở đây tốt, 150 gốc lúa thu hoạch được 768 bông. Quận Giao Chỉ mỗi năm nộp thóc cho quan Tư nông hơn 1.360 vạn hộc [Kiều Thu Hoạch, 2016, 330-331]. Canh tác lúa rõ ràng đã có nhiều tiến bộ hơn trước.

Bên cạnh lúa, người dân Giao Châu còn trồng các loại cây cho bột như khoai lang, sắn, củ từ, củ mài, khoai sọ... Trong đó, khoai lang là một trong những sản vật quý của nông nghiệp nước ta. Thư tịch cổ của Trung Quốc khi nói về khoai lang đã cho biết, khoai lang Giao Chỉ khi đào lên "ăn sống cũng ngon, luộc ăn thì có vị ngon ngọt". Bên cạnh khoai lang, mía của nước ta cũng là cây trồng được người Trung Quốc đánh giá cao. Trong sách Tề dân yếu thuật có nói rõ về điều này: "Mía do Giao Chỉ trồng đặc biệt thơm ngon. Đẵn mà ăn đã ngọt; ép lấy nước ngọt gọi là nước đường lại càng quý".

Nghề làm vườn đã có từ thời dựng nước, đến thời này càng phát triển hơn. Trong canh tác vườn, dân ta trồng các loại rau muống bè, thả nổi trên mặt nước, cà, gừng, hành; các cây ăn quả: chuối (chuối tiêu,

chuối hột, chuối bụt), vải, nhãn, cam, quýt, trám, dừa và cây dùng để uống nước (chè)... Dân ta đã biết chiết cành để tạo ra cây trồng mới, nuôi kiến vàng để diệt sâu cho cây. Người ta còn trồng tre, bông, cói... để cung cấp nguyên liệu cho sản xuất giấy, dệt vải, dệt chiếu, làm giáo mác, làm thuyền và xây dựng thành lũy. Đặc biệt trầu cau cũng được trồng ở nhiều nơi đáp ứng cho nhu cầu ăn trầu, cưới hỏi, lễ tết. Chăn nuôi gia cầm, gia súc và nuôi tằm được duy trì, phát triển.

Như vậy nông nghiệp thời Bắc thuộc là một nền nông nghiệp thâm canh, bước đầu đã có phân hoá thành nhiều ngành sản xuất: làm ruộng, làm vườn; trồng ngũ gốc, chăn nuôi gia cầm, gia súc, nuôi tằm, nuôi cá... Mặc dù bị phong kiến phương Bắc bóc lột nặng nề, khiến kinh tế nông nghiệp nhiều giai đoạn bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Nhưng nhìn chung, nông nghiệp thời này vẫn có nhiều thành tựu đáng ghi nhận trên các mặt từ cây trồng, vật nuôi đến kinh nghiệm, kỹ thuật canh tác, sản xuất và năng suất cao hơn trước.

b. Thủ công nghiệp

Nhìn chung các ngành nghề thủ công nghiệp có bước tiến đáng kể. Nhiều nghề thủ công mới ra đời do dân ta học hỏi, tiếp thu từ nước ngoài. Nghề đúc đồng cổ truyền vẫn tiếp tục phát triển mạnh, sản xuất ra các dụng cụ gia đình như nồi, ấm, chậu, bình... Tuy vậy, các sản phẩm thời kỳ này không còn những nét tinh xảo và hoành tráng như thời dựng nước.

Nghề rèn đúc sắt chế tạo được nhiều loại công cụ phục vụ sản xuất nông nghiệp như cuốc, thuổng, mai; các loại vũ khí như kiếm, dao, giáo, kích và các loại dụng cụ gia đình như nồi, đèn, đỉnh... Thời này vừa có đồ sắt rèn và cả đồ sắt đúc. Có điểm đáng lưu ý là bên cạnh những đồ đồng Đông Sơn, đồ sắt Âu Lạc thuần Việt các nhà khảo cổ còn tìm thấy trong các mộ Hán thời này một số công cụ, vật dùng kim loại mang phong cách người Hán là đỉnh, gươm, gương đồng... Điều đó cho thấy, ngoài các sản phẩm của người Việt còn có cả các công cụ, vật dùng do người Hán di cư sang nước ta chế tạo, sản xuất.

Xem tất cả 151 trang.

Ngày đăng: 16/09/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí