Một Số Kiến Nghị Cụ Thể Liên Quan Đến Áp Dụng Pháp Luật Trong Hoạt Động Kiểm Sát Điều Tra Các Vụ Án Hình Sự

Tầm quan trọng của nguyên tắc này là tạo cơ sở cho việc xác lập rò ràng, đầy đủ các nguyên tắc khác của hoạt động tố tụng như trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng, người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội. Mọi nghi ngờ về lỗi của người bị buộc tội nếu không thể chứng minh bằng các biện pháp do Bộ luật này quy định thì phải suy đoán theo hướng có lợi cho họ.

Để đảm bảo quyền của người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo không phải đưa ra chứng cứ bất lợi cho mình, cần quy định rò ràng hơn trong BLTTHS sửa đổi: người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội. Việc quy định rò ràng như vậy sẽ góp phần hạn chế tình trạng một số trường hợp bức cung, dùng nhục hình để buộc người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đưa ra những chứng cứ bất lợi cho họ.

Do vậy hoàn toàn có cơ sở khoa học và thực tiễn để khẳng định tính đúng đắn và cần thiết về quy định nguyên tắc Suy đoán vô tội trong BLTTHS sửa đổi mà hiện tại đã được đưa ra lấy ý kiến trong Dự thảo BLTTHS sửa đổi tại điều 9: Điều

9. Suy đoán vô tội (sửa đổi, bổ sung)” 1.Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật; 2. Mọi nghi ngờ về tội của người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu chưa được làm sáng tỏ theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì phải xử lý theo hướng có lợi cho họ.

Đồng thời,điều 10 Dự thảo BLTTHS sửa đổi cũng quy định: trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về Cơ quan điều tra, các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án. Người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh sự vô tội của mình.

- Bảo đảm quyền bào chữa của người bị bắt, người bị tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử

Hiến pháp năm 2013 đã có những quy định liên quan đến nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa và các hình thức thực hiện quyền bào chữa: tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa, quyền nhờ luật sư bào chữa. Do vậy, trong BLTTHS sửa

đổi cần quy định rò ràng, đầy đủ về đảm bảo quyền bào chữa của người bị bắt, người bị tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử. Bảo đảm quyền bào chữa của người bị bắt, người bị tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử là nguyên tắc cơ bản của mọi nền tư pháp dân chủ. Người bào chữa tham gia tố tụng “không chỉ để thực hiện việc gỡ tội cho bị can, bị cáo bằng mọi giá, mà suốt quá trình đó, chính họ cần trở thành những cộng tác viên hỗ trợ tích cực, cùng các cơ quan tố tụng xác định sự thật khách quan của vụ án”.

Cần quy định về thời hạn tạm giam theo hướng đảm bảo sự tương thích giữa thời hạn tạm giam và thời hạn điều tra, truy tố, xét xử để đảm bảo yêu cầu của việc điều tra hoặc đang truy tố, xét xử.

Để đảm bảo quyền bào chữa cho người bị bắt, người bị tạm giữ, tác giả cũng đồng tình với ý kiến về việc bỏ quy định cấp Giấy chứng nhận người bào chữa và thay bằng quy định luật sư đăng ký bào chữa khi đã xuất trình đầy đủ giấy tờ luật định. Đồng thời việc quy định này cũng sẽ góp phần phòng chống những hiện tượng tiêu cực có thể xẩy ra trong thực tiễn như bức cung, dùng nhục hình dẫn đến hậu quả nghiêm trọng ở giai đoạn điều tra.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 124 trang tài liệu này.

Để phòng chống hiện tượng bức cung, nhục hình, mớm cung, bảo đảm tính minh bạch, tăng khả năng kiểm soát đối với hoạt động tố tụng hình sự, bảo đảm quyền con người, quyền công dân cần phải quy định bắt buộc phải ghi âm hoặc ghi hình hoạt động hỏi cung bị can. theo Phó Trưởng Ban Nội chính Trung ương Nguyễn Doãn Khánh, việc ghi âm, ghi hình không những lưu chứng cứ mà còn là giám sát khách quan, vì thực tế tình trạng mớm cung, bức cung, nhục hình thường xảy ra ở giai đoạn này.

Đồng thời cũng xem xét việc sửa đổi Điều 196 về giới hạn của việc xét xử theo hướng để Toà án trong bất kỳ trường hợp nào cũng không được vượt quá giới hạn truy tố của Viện kiểm sát nếu điều đó làm bất lợi cho bị cáo. Toà án chỉ có thể vượt quá giới hạn truy tố của Viện kiểm sát nếu không làm bất lợi cho bị cáo, không ảnh hưởng đến quyền bào chữa của bị cáo.

Áp dụng pháp luật trong hoạt động kiểm sát điều tra các vụ án hình sự, qua thực tiễn Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải phòng - 12

- Hoàn thiện các quy định về tổ chức, hoạt động, thẩm quyền tố tụng hình sự của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án, đảm bảo thực hiện nguyên tắc tranh tụng và công bằng trong xét xử và nguyên tắc thẩm phán, hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật

Phải phân định rò ràng, rành mạch chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ quan tố tụng, bảo đảm mỗi cơ quan phải chịu trách nhiệm độc lập về kết luận của mình. Có như vậy mới tăng cường ý thức trách nhiệm, sự cẩn trọng của người tiến hành tố tụng trong việc xử lý vụ án.

Cần tiếp tục quy định rò ràng, chặt chẽ hơn về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của những người tiến hành tố tụng như Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT, Điều tra viên, Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKS, Kiểm sát viên, Chánh án, Phó Chánh án TAND, Thẩm phán, Hội thẩm và Thư ký Tòa án, những người có chức vụ lãnh đạo, quản lý trong các cơ quan tiến hành tố tụng.

Lĩnh vực tố tụng hình sự là nơi quyền con người dễ bị xâm phạm, bị tổn thương nhất và hậu quả để lại cũng nghiêm trọng nhất khi nó động chạm đến quyền được sống, quyền tự do của mỗi cá nhân Bảo đảm quyền con người trong TTHS gắn liền với hoạt động và trách nhiệm của CQĐT, VKS và Tòa án. Trong TTHS, điều tra là giai đoạn mở đầu, là khâu đột phá của cả quá trình chứng minh tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội. Thực tế cho thấy nhưng sai lầm nghiêm trọng như bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội thường bắt nguồn từ giai đoạn điều tra.

Cần quy định chặt chẽ về các biện pháp ngăn chặn trong đó hạn chế một số quyền tự do của người bị tạm giam, tạm giữ, bị can, bị cáo, trách nhiệm pháp lý, chế tài nghiêm khắc đối với mọi hành vi vi phạm của những người tiến hành tố tụng.

Để bảo vệ, bảo đảm quyền con người cho người tham gia tố tụng, cần xác định chế độ trách nhiệm của các cơ quan, người tiến hành tố tụng một cách rò ràng, cụ thể, minh bạch trong các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử. Quy định rò ràng, chặt chẽ cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng để đảm bảo ngăn ngừa những người đó lạm dụng quyền hạn của mình, đảm bảo cho công dân nói chung, người tham gia tố tụng nói riêng giám sát được hoạt động của cơ quan, người tiến hành tố tụng.

- Bảo đảm nguyên tắc tranh tụng

Hiến pháp đã quy định về nguyên tắc tranh tụng trong xét xử và bổ sung quyền của người bị buộc tội phải được Tòa án xét xử công bằng (khoản 2 Điều 31). Do vậy trong BLTTHS sửa đổi cần thiết phải điều chỉnh các quy định ngay từ giai đoạn điều tra nhằm bảo đảm mọi yêu cầu của Viện kiểm sát về chứng minh tội phạm và người phạm tội phải được Cơ quan điều tra đáp ứng đầy đủ, kịp thời. Bị can, bị cáo và người bào chữa phải được tạo những điều kiện tốt nhất để chứng minh sự vô tội, giảm tội, giảm hình phạt; được bình đẳng trong việc thu thập, đánh giá, sử dụng chứng cứ, tranh luận và trình bày quan điểm. Phán quyết của Tòa án chỉ căn cứ vào kết quả tranh tụng và các chứng cứ đã được kiểm tra công khai tại phiên tòa.

Sửa đổi Điều 10 BLTTHS theo hướng khẳng định Toà án là cơ quan thực hiện chức năng xét xử và không có trách nhiệm chứng minh tội phạm. Cần bỏ quy định quyền của Hội đồng xét xử trong việc ra quyết định khởi tố vụ án hình sự. Chức năng của Tòa án là xét xử chứ không phải hoạt động điều tra. Nếu trường hợp Hội đồng xét xử ra quyết định khởi tố vụ án hình sự thì cũng phải chuyển cho CQĐT để điều tra theo thẩm quyền. Lúc này sẽ phát sinh vấn đề khởi tố oan, sai, không đúng thì cơ quan nào chịu trách nhiệm trước pháp luật.

Toà án chỉ có nghĩa vụ chứng minh trong bản án của mình là vì sao chấp nhận cáo trạng của Viện kiểm sát mà không chấp nhận lời bào chữa của luật sư (khi tuyên án kết tội); hoặc ngược lại, vì sao không chấp nhận cáo trạng của Viện kiểm sát mà lại chấp nhận lời bào chữa của luật sư (khi tuyên án vô tội) mà không có nghĩa vụ chứng minh là bị cáo có tội thay cho bên kết tội.

Cần sửa đổi, bổ sung Điều 217 và Điều 218 của BLTTHS theo hướng quy định rò hơn quyền và nghĩa vụ của các bên khi tham gia tranh luận, trách nhiệm của Chủ toạ phiên toà phải đảm bảo cho việc tranh luận diễn ra dân chủ, khách quan, tạo điều kiện cho các bên trình bày hết ý kiến và tranh luận... Sửa đổi, bổ sung Điều 190 BLTTHS quy định về sự có mặt và sự tham gia tranh tụng của người bào chữa tại phiên toà. Cần quy định sự có mặt của người bào chữa là bắt buộc. Trường hợp họ vắng mặt thì Hội đồng xét xử phải hoãn phiên toà.

- Bảo đảm quá trình giải quyết vụ án hình sự phải có sự kiểm tra, giám sát, kiểm soát chặt chẽ

Hiến pháp quy định trách nhiệm, vai trò của Viện kiểm sát đối với việc thực hiện hai chức năng là thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Sửa đổi BLTTHS phải cụ thể hóa đầy đủ yêu cầu này, bảo đảm mọi hoạt động của các cơ quan tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự phải được kiểm tra, giám sát, kiểm soát chặt chẽ bởi nhiều cơ chế, bao gồm cả cơ chế tự kiểm tra bên trong mỗi hệ thống và cơ chế giám sát từ bên ngoài hệ thống. Viện kiểm sát với tư cách là một thiết chế thực thi Hiến pháp, pháp luật, bảo đảm cho Hiến pháp, pháp luật được chấp hành nghiêm minh và thống nhất, có trách nhiệm nắm bắt đầy đủ, kịp thời mọi tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố (kiểm soát đầu vào) và kiểm sát chặt chẽ toàn bộ quá trình giải quyết vụ án của các cơ quan tố tụng.

- Bảo đảm thực hiện nguyên tắc hiến định về bồi thường và xử lý khi oan, sai

Trong nội dung BLTTHS sửa đổi cần thể hiện đầy đủ để thực hiện nguyên tắc hiến định về bồi thường và xử lý khi oan, sai. Hiến pháp năm 2013, đã quy định rò ràng, đầy đủ về nguyên tắc bồi thường và xử lý khi oan, sai: “Các cơ quan tư pháp khi tiến hành tố tụng phải chịu trách nhiệm về những việc làm trái pháp luật và bồi thường oan, sai cho công dân (khoản 5 Điều 31). Hiến pháp cũng bổ sung người bị khởi tố, điều tra, thi hành án trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại ngoài những chủ thể đã được quy định trong Hiến pháp năm 1992; bổ sung người vi phạm pháp luật trong việc khởi tố, điều tra, thi hành án gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý theo pháp luật.

3.2.1.2. Sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự

Bộ luật hình sự năm 1999 đã có nhiều điểm tích cực, đã quy định một cách tương đối có hệ thống, toàn diện các nguyên tắc, chế định chung của chính sách hình sự; đã hình sự hóa được khá nhiều hành vi gây nguy hiểm cao cho xã hội và xác định hệ thống hình phạt khá toàn diện, góp phần tích cực vào việc đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm.

Tuy vậy qua thực tiễn thi hành và xuất phát từ tình hình xã hội hiện nay,

nhiều quy định của BLHS đã tỏ ra bất cập, lạc hậu. Hiện nay một số hành vi có tính chất nguy hiểm cho xã hội nhưng chưa được quy định trong BLHS. Không ít tổ chức kinh tế, doanh nghiệp (pháp nhân) vì chạy theo lợi ích cục bộ đã thực hiện nhiều hành vi vi phạm pháp luật hết sức nghiêm trọng, có tính chất tội phạm nhưng BLHS hiện hành chỉ truy cứu trách nhiệm đối với cá nhân người phạm tội mà không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân.

Do vậy, cần phải sửa đổi, bổ sung BLHS để đáp ứng yêu cầu thực tiễn xã hội, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, phục vụ tích cực cho công cuộc xây dựng đất nước, hội nhập quốc tế của nước ta, hoàn thiện các quy định của BLHS theo hướng cơ bản, toàn diện, có tính minh bạch và tính khả thi cao, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình mới.

Định hướng sửa đổi Bộ luật Hình sự

Bộ luật hình sự cần được sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện theo những định hướng cơ bản đã được nhà nước ta xác định dưới đây

- BLHS sửa đổi phải đảm bảo sự phù hợp các nguyên tắc, tinh thần của Hiến pháp năm 2013, bảo vệ có hiệu quả các quyền con người, quyền cơ bản công dân, hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội; có cơ chế khuyến khích, động viên nhân dân tích cực tham gia phòng, chống tội phạm, tự bảo vệ mình và bảo vệ quyền lợi của người khác.

- BLHS sự phải tiếp tục thể chế hóa những quan điểm, chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết 49 của Bộ Chính trị, đặc biệt là chủ trương: "Giảm bớt khung hình phạt tối đa quá cao trong một số loại tội phạm. Khắc phục tình trạng hình sự hoá quan hệ dân sự kinh tế và bỏ lọt tội phạm. Quy định là tội phạm đối với những hành vi nguy hiểm cho xã hội mới xuất hiện trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, khoa học, công nghệ và hội nhập quốc tế".

- BLHS phải tạo ra hành lang pháp lý để bảo vệ và thúc đẩy nền kinh tế thị trường, bảo vệ quyền cạnh tranh lành mạnh và bình đẳng giữa các thành phần kinh tế; cần nghiên cứu kỹ càng vấn đề trách nhiệm hình sự của pháp nhân

- BLHS sửa đổi phải đáp ứng được nhiệm vụ chính trị đặt ra cho công cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng.

Tăng việc áp dụng hình phạt tiền, cải tạo không giam giữ đối với một số hành vi như: các tội phạm về môi trường, các tội phạm xâm phạm trật tự quản lý hành chính, tội phạm tham nhũng. Áp dụng hạn chế hình phạt tử hình theo hướng chỉ áp dụng với một số ít tội phạm đặc biệt nghiêm trọng; mở rộng đối tượng được miễn, hoãn thi hành hình phạt tử hình

BLHS phải được xây dựng trên cơ sở đổi mới tư duy về quy định tội phạm và hình phạt, về cơ sở của trách nhiệm hình sự nhằm khắc phục những bất cập, hạn chế trong thực tiễn, xem xét khả năng quy định tội phạm và hình phạt không chỉ trong BLHS mà cả trong các luật chuyên ngành khác nhằm tạo sự linh hoạt, kịp thời trong đấu tranh với các loại tội phạm mới phát sinh, đồng thời bảo đảm tính ổn định lâu dài, giảm áp lực đối với việc sửa đổi thường xuyên một bộ luật lớn như BLHS. Trong bối cảnh đất nước ta đang hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng, BLHS phải luật hóa cho được những quy định mang tính bắt buộc của các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.

3.2.1.3. Một số kiến nghị cụ thể liên quan đến áp dụng pháp luật trong hoạt động kiểm sát điều tra các vụ án hình sự

Cần có các quy định pháp luật nêu rò hậu quả pháp lý của các vi phạm pháp luật trong việc giải quyết vụ án, nhất là vi phạm về thủ tục tố tụng, vi phạm trong quá trình điều tra, thu thập chứng cứ.

Mặc dù có quy định về thời hạn tố tụng cho mỗi giai đoạn nhưng vẫn có nhiều vụ án kéo dài, vi phạm thời hạn; mặc dù đã có quy định về thẩm quyền điều tra, truy tố, xét xử nhưng vẫn có nhiều vụ án điều tra không đúng thẩm quyền; có nhiều vụ án khi Viện kiểm sát đã đưa ra các yêu cầu điều tra nhưng một số cơ quan điều tra không thực hiện; nhiều vụ án chỉ có lời nhận tội của bị can, bị cáo mà không có chứng cứ khác để đối chứng nhưng cơ quan tiến hành tố tụng vẫn sử dụng để buộc tội; pháp luật quy định Tòa án cấp sơ thẩm có trách nhiệm gửi bản án, quyết định sơ thẩm cho Viện kiểm sát cùng cấp sau khi xét xử để bảo đảm quyền kiểm sát bản án, quyết định việc kháng nghị nhưng nhiều tòa án các cấp không tuân thủ v.v…

Cần sửa điểm b khoản 2 Điều 58 Bộ luật TTHS năm 2003: khi người bào chữa đề nghị Cơ quan điều tra thông báo trước về thời gian, địa điểm hỏi cung bị can, Cơ quan điều tra có trách nhiệm thông báo chậm nhất 48 giờ trước khi hỏi cung để đảm bảo người bào chữa có thể đến buổi hỏi cung. Về điểm g khoản 2 Điều 58 Bộ luật TTHS năm 2003 quy định, người bào chữa có quyền “Sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa sau khi kết thúc điều tra theo quy định của pháp luật” nhưng cơ quan có thẩm quyền chưa giải thích rò cụm từ “theo quy định của pháp luật” nên vẫn còn tình trạng gây khó dễ cho người bào chữa. Do vậy, nên sửa theo hướng: cơ quan tiến hành tố tụng có nghĩa vụ đảm bảo mọi điều kiện cần thiết để người bào chữa được đọc, ghi chép, sao chụp tài liệu liên quan.

- Về hoàn thiện các quy định đảm bảo giải quyết vụ án khẩn trương, đúng quy định

Hiến pháp nước ta khẳng định “quyền của người bị buộc tội phải được Tòa án xét xử kịp thời trong thời hạn luật định” (khoản 2 Điều 31 Hiến pháp năm 2013). Do vậy, cần xem xét để sửa đổi trong Bộ luật TTHS một cách hợp lý thời gian tố tụng để đảm bảo cơ sở pháp lý cho việc tiến hành các hoạt động TTHS kịp thời, khẩn trương.Việc quy định thời gian tố tụng phải vừa đảm bảo đủ thời gian cần thiết để cơ quan tố tụng phát hiện tội phạm, vừa bảo vệ được quyền con người. Bộ luật TTHS chưa quy định thời hạn đối với việc xem xét, phê chuẩn của Viện kiểm sát đối với lệnh khám xét của Cơ quan điều tra, dẫn đến tình trạng Cơ quan điều tra có khuynh hướng để nghị Viện kiểm sát phê chuẩn ngay để thi hành trong khi Viện kiểm sát cần có thời gian nhất định để nghiên cứu, xem xét đảm bảo việc phê chuẩn chính xác, có căn cứ, từ đó tạo nguy cơ xâm phạm quyền con người một cách bất hợp lý.

- Về thời hạn tạm giữ:

Khoản 2 Điều 87 Bộ luật TTHS năm 2003 quy định về thời hạn tạm giữ: Trong trường hợp cần thiết, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ, nhưng không quá ba ngày. Trong trường hợp đặc biệt, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ lần hai nhưng không quá ba ngày. Có thể nói, quy định này chưa cụ thể, tạo ra một phạm vi áp dụng rộng. Bộ luật TTHS hiện hành cần rà soát,

Xem tất cả 124 trang.

Ngày đăng: 26/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí