Chương 1
Cơ sở lý luận về áp dụng pháp luật trong kiểm sát điều tra các vụ án hình sự
1.1. Khái niệm, đặc điểm của áp dụng pháp luật
1.1.1. Khái niệm áp dụng pháp luật
Khoa học pháp lý XHCN chỉ ra rằng, pháp luật XHCN là một hệ thống bao gồm tổng thể các quy tắc xử sự chung, thể chế hóa đường lối chủ trương của Đảng, thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo một trình tự, hình thức, thủ tục luật định, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội theo định hướng XHCN.
Có thể bạn quan tâm!
- Nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật trong kiểm sát điều tra các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Ninh - 1
- Quy Trình Áp Dụng Pháp Luật Trong Ksđt Các Vụ Án Hình Sự
- Nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật trong kiểm sát điều tra các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Ninh - 4
- Kiểm Sát Việc Áp Dụng, Thay Thế, Hủy Bỏ Các Biện Pháp Ngăn Chặn
Xem toàn bộ 123 trang tài liệu này.
Trong đời sống và trong xã hội, pháp luật XHCN chiếm giữ vai trò vị trí đặc biệt quan trọng. Xét trong bình diện chung nhất, pháp luật là phương tiện để thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng, bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng được triển khai thực hiện có hiệu quả trên quy mô toàn xã hội; là phương tiện để Nhà nước quản lý mọi mặt đời sống xã hội; là phương tiện để nhân dân phát huy, thực hiện quyền dân chủ, các quyền và lợi ích hợp pháp, nghĩa vụ của công dân.
Pháp luật với tư cách là yếu tố điều chỉnh các quan hệ xã hội, luôn tác động và ảnh hưởng tới các quan hệ xã hội, cũng như các yếu tố của thượng tầng kiến trúc pháp lý; duy trì trật tự xã hội có lợi cho giai cấp thống trị. Trong quan hệ với Nhà nước, vai trò của pháp luật luôn gắn liền với việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước, phát huy được vai trò của Nhà nước trong việc thực hiện chức năng, quản lý, đưa xã hội phát triển. Đối với chính Nhà nước, pháp luật vừa là cơ sở tổ chức, hoạt động vừa là sức mạnh của quyền lực chính trị đồng thời nó cũng ràng buộc Nhà nước, tránh cho Nhà nước khỏi tình trạng hoạt động tùy tiện, vi phạm quyền và tự do của công dân. Lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật nói chung và pháp luật XHCN nói riêng, pháp luật
luôn có vai trò, giá trị xã hội và tính pháp quyền mà không một công cụ, phương tiện điều chỉnh nào có thể thay thế được.
Tuy nhiên, vai trò của pháp luật chỉ có thể thực sự phát huy được hiệu quả khi các quy định của pháp luật do Nhà nước đặt ra được chính các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, các công dân thực hiện một cách chính xác, nghiêm minh và tự giác. Do đó, vấn đề đặt ra là không phải chỉ có đủ các văn bản pháp luật đáp ứng nhu cầu đời sống xã hội và đời sống Nhà nước, mà điều quan trọng hơn ở chỗ pháp luật đó có được thực hiện không, những yêu cầu của pháp luật có trở thành hiện thực không.
Về mặt lý luận, thực hiện pháp luật là một quá trình hoạt động của con người có tổ chức có chủ ý bao hàm những hành vi hợp pháp phù hợp với những quy định, những yêu cầu của pháp luật.
Thực hiện pháp luật có thể là hành vi của chính cá nhân con người nhưng cũng có thể là hành động của các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, là một hiện tượng xã hội có tính pháp lý thực hiện pháp luật: "là một quá trình hoạt động có mục đích làm cho các quy định của pháp luật đi vào cuộc sống trở thành hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật" [30, tr. 455].
Các quy định pháp luật rất phong phú cho nên hình thức thực hiện pháp luật cũng rất phong phú và khác nhau. Căn cứ vào tính chất của hoạt động thực hiện pháp luật, khoa học pháp lý đã xác định và khái quát hóa thành những hình thức thực hiện pháp luật như sau:
- Tuân thủ pháp luật (tuân theo pháp luật) là một hình thức thực hiện pháp luật, (xử sự thụ động). Trong đó, các chủ thể pháp luật kiềm chế không tiến hành những hành động mà pháp luật ngăn cấm.
- Thi hành pháp luật (chấp hành pháp luật); là hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể pháp luật thực hiện nhiệm vụ pháp lý của mình bằng hành động tích cực. Những quy phạm pháp luật bắt buộc được thực hiện ở hình thức này.
- Sử dụng pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể pháp luật thực hiện quyền năng pháp lý của mình để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, của Nhà nước và của các chủ thể khác. Những quy phạm pháp luật quy định các
quyền về tự do dân chủ của công dân được thực hiện ở hình thức này. Hình thức này khác với các hình thức trên ở chỗ chủ thể pháp luật có thể thực hiện hoặc không thực hiện quyền được pháp luật cho phép theo ý chí của mình, chứ không bị ép buộc phải thực hiện pháp luật. Đó là quyền khiếu nại, tố cáo, đình công, kháng cáo …
- áp dụng pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật; trong đó Nhà nước thông qua các cơ quan có thẩm quyền hoặc nhà chức trách tổ chức cho các chủ thể pháp luật thực hiện các quy định của pháp luật; hoặc tự mình căn cứ vào các quy định của pháp luật để tạo ra những quy định làm phát sinh, thay đổi, đình chỉ hoặc chấm dứt những quan hệ pháp luật. Trong trường hợp này, các chủ thể pháp luật thực hiện các quy định của pháp luật có sự can thiệp của Nhà nước. Trong một số trường hợp đặc biệt được Nhà nước ủy quyền theo quy định của pháp luật, cơ quan của một số tổ chức chính trị xã hội cũng có thể thực hiện hoạt động này.
Tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật và sử dụng pháp luật là những hình thức phổ biến mà mọi chủ thể pháp luật đều có thể thực hiện thì áp dụng pháp luật là hình thức đặc thù bởi luôn có sự tham gia của Nhà nước, thông qua các cơ quan hoặc nhà chức trách có thẩm quyền. áp dụng pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật quan trọng. Thông qua hình thức này ý chí của Nhà nước được trở thành hiện thực, Nhà nước thực hiện được chức năng tổ chức, quản lý các lĩnh vực của đời sống xã hội, kết hợp với trật tự xã hội, đảm bảo cho việc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, các công chức nhà nước trong khuôn khổ pháp luật. Điều này có lý do bởi trong nhiều trường hợp, các quy định của pháp luật không thể thực hiện nếu chỉ bằng các hình thức tuân theo pháp luật, thi hành pháp luật hoặc sử dụng pháp luật. Lý do có thể các chủ thể không muốn thực hiện hoặc không đủ khả năng thực hiện nếu thiếu sự thông qua của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Sự áp dụng pháp luật cần phải được tiến hành qua các trường hợp sau:
- Trong trường hợp khi cần áp dụng các biện pháp cưỡng chế Nhà nước, hoặc áp dụng chế tài xử lý đối với những chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật. Ví dụ, một công dân thực hiện hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, hành vi đó đã có đầy đủ yếu tố cấu thành tội sử dụng trái phép chất ma túy được quy định tại Điều 194 BLHS năm 1999. Không phải ngay sau đó trách nhiệm hình sự tự động phát sinh và người vi phạm tự giác chấp hành các biện pháp chế tài tương xứng. Vì vậy, cần có hoạt động của các cơ quan
bảo vệ pháp luật và những người có thẩm quyền nhằm điều tra, truy tố, xét xử để đối chiếu với quy định của pháp luật để ấn định trách nhiệm hình sự đối với người đã thực hiện hành vi vi phạm và buộc người này phải chấp hành.
- Trong trường hợp khi những quyền và nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể không mặc nhiên phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt nếu thiếu sự can thiệp của Nhà nước. Ví dụ, công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của Nhà nước nhưng khi kinh doanh phải đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc trong quan hệ kinh tế liên quan đến việc ký kết thực hiện hợp đồng kinh tế mà các bên không tự giải quyết được khi có tranh chấp xảy ra, thì các bên phải nhờ đến Tòa án kinh tế giải quyết …
- Trong một số quan hệ pháp luật mà Nhà nước thấy cần thiết phải tham gia để giám sát, kiểm tra hoạt động của các bên tham gia vào quan hệ đó; hoặc Nhà nước xác nhận sự tồn tại của một số vụ việc, sự kiện thực tế. Ví dụ, ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn chứng nhận việc đăng ký kết hôn, xác nhận di chúc, chứng thực thế chấp …
- Như vậy áp dụng pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật đặc thù, do cơ quan nhà nước, công chức nhà nước được trao quyền tiến hành theo một thủ tục do pháp luật quy định; nhằm thực hiện các biện pháp cưỡng chế khi có hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm; khi phải giải quyết các tranh chấp về quyền chủ thể và các nghĩa vụ pháp lý giữa các chủ thể trong một quan hệ pháp luật nhất định; hoặc khi Nhà nước thấy cần phải can thiệp, cần phải tham gia để bảo đảm việc thực thi trên thực tế của các chủ thể trên các lĩnh vực của đời sống xã hội theo quy định của pháp luật.
1.1.2. Đặc điểm của áp dụng pháp luật
Thứ nhất, áp dụng pháp luật mang tính tổ chức, thực hiện quyền lực của Nhà nước trong thực tế:
- Hoạt động áp dụng pháp luật chỉ do những cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc nhà chức trách có thẩm quyền tiến hành. Mỗi cơ quan nhà nước hay nhà chức trách trong phạm vi thẩm quyền được giao thực hiện một số hoạt động áp dụng pháp luật quyết định. Trong quá trình áp dụng pháp luật cơ quan áp dụng pháp luật phải tính đến mọi khía cạnh, mọi chi tiết và phải xem xét cẩn trọng, dựa trên cơ sở những quy định, yêu cầu của áp dụng pháp luật đã được xác định để ra quyết định áp dụng pháp luật. Như vậy,
pháp luật là cơ sở xuất phát điểm để cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng pháp luật thực hiện chức năng của mình.
Việc áp dụng pháp luật được xem là sự tiếp tục thực hiện ý chí của Nhà nước được thể hiện trong pháp luật. Do vậy, việc áp dụng pháp luật phải phù hợp với pháp luật, với chủ trương, chính sách của Nhà nước trong mỗi giai đoạn nhất định.
Trong lĩnh vực tư pháp, áp dụng pháp luật được các cán bộ công chức nhà nước có chức danh pháp lý tiến hành, như điều tra viên, kiểm sát viên, Thẩm phán, Chấp hành viên, … tiến hành theo một thủ tục tố tụng nhất định để thu thập chứng cứ, xác minh, điều tra làm rõ các tình tiết của vụ án nhằm xác định khách quan việc truy cứu trách nhiệm pháp lý; xác định quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ pháp luật.
- Tổ chức thực hiện quyền lực của Nhà nước được thể hiện ở chỗ hoạt động áp dụng pháp luật chỉ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhân viên nhà nước có thẩm quyền tiến hành theo quy định của pháp luật. Việc tiến hành áp dụng pháp luật và ra văn bản áp dụng pháp luật hoàn toàn theo quy định của pháp luật mà không phụ thuộc vào ý chí của các chủ thể áp dụng pháp luật.
- áp dụng pháp luật có tính bắt buộc đối với chủ thể bị áp dụng pháp luật và các chủ thể có liên quan.
- Văn bản áp dụng pháp luật chỉ do các cơ quan hay nhà chức trách có thẩm quyền áp dụng pháp luật ban hành. Văn bản áp dụng pháp luật mang tính bắt buộc phải thực hiện đối với những tổ chức và cá nhân có liên quan. Trong những trường hợp cần thiết, quyết định áp dụng pháp luật được bảo đảm bằng biện pháp cưỡng chế Nhà nước.
Thứ hai, nếu quy phạm pháp luật là những khuôn mẫu chung, là những tiêu chuẩn chung cho xử sự giữa người với người trong mối quan hệ xã hội thì hoạt động áp dụng pháp luật luôn mang tính cụ thể.
Tính cụ thể của hoạt động áp dụng pháp luật thể hiện ở chỗ các địa chỉ để áp dụng pháp luật là xác định, gồm cả sự việc, con người, tập thể, thời gian, không gian; các quy định áp dụng pháp luật được ban hành luôn mang tính cá biệt, cụ thể đối với các quan hệ xã hội xác định. Ví dụ, trong một vụ án hình sự được khởi tố thì các quyết định khởi tố của từng bị can có tính riêng biệt, không thể sử dụng một quyết định khởi tố bị
can cho các bị can nếu vụ án có nhiều bị can bị khởi tố. Đối tượng của hoạt động áp dụng pháp luật là những quan hệ xã hội cần đến sự điều chỉnh cá biệt, trên cơ sở những mệnh lệnh chung trong quy phạm pháp luật. Bằng hành động áp dụng pháp luật những quy phạm pháp luật nhất định được cá biệt hóa một cách cụ thể và chính xác.
Thứ ba, việc ban hành một quyết định áp dụng pháp luật phải được thực hiện thông qua thủ tục nhất định. Các thủ tục để ban hành quyết định trong hoạt động áp dụng pháp luật phải được pháp luật quy định rất chặt chẽ và đòi hỏi các chủ thể phải tuân thủ nghiêm minh. Các thủ tục giúp cho các chủ thể áp dụng pháp luật thể hiện được nguyện vọng, mong muốn của mình một cách dân chủ, khách quan trong quá trình áp dụng pháp luật. Tính đơn giản hay tính phức tạp của các thủ tục này phụ thuộc vào tính chất nội dung sự việc cần phải áp dụng pháp luật. Để áp dụng các quy phạm pháp luật đơn giản như việc xử phạt vi phạm hành chính tại chỗ thì các thủ tục đặt ra phải đơn giản, phải nhanh chóng. Ví dụ, cảnh sát giao thông phạt người điều khiển xe gắn máy không đội mũ bảo hiểm khi đang điều khiển xe gắn máy trên đoạn đường bắt buộc phải đội mũ bảo hiểm. Để áp dụng quy phạm pháp luật phức tạp, thì cần phải xác minh, điều tra, đánh giá kỹ những tình tiết, sự việc; việc xác định một người có phạm tội hay không phạm tội đòi hỏi phải có cả một quá trình của những cơ quan tiến hành tố tụng như Công an, VKS, Tòa án.
Thứ tư, áp dụng pháp luật là hành động đòi hỏi tính sáng tạo; khi áp dụng pháp luật, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải nghiên cứu kỹ lưỡng vụ việc, cần làm sáng tỏ cấu thành pháp lý của nó để từ đó lựa chọn quy phạm, ra văn bản áp dụng pháp luật và tổ chức thi hành. Trong trường hợp pháp luật chưa có quy định hoặc quy định chưa rõ thì phải vận dụng một cách sáng tạo bằng cách áp dụng pháp luật tương tự. Để đạt được điều đó, đòi hỏi các nhà chức trách phải có ý thức pháp luật cao, có tri thức tổng hợp, có kinh nghiệm phong phú, có đạo đức nghề nghiệp và có tay nghề vững vàng …
ở nước ta, trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền hiện nay, đòi hỏi phải đề cao vai trò của hoạt động áp dụng pháp luật, đặc biệt là hoạt động áp dụng pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng nhất là tòa án. Ngoài hệ thống tòa án truyền thống xét xử những vụ án hình sự, vụ án dân sự, hôn nhân gia đình còn xuất hiện các loại tòa án khác như: Tòa án hành chính, Tòa án kinh tế, Tòa án lao động … điều đó nhằm tạo ra cơ chế đồng bộ đảm
bảo trật tự, kỷ cương pháp luật, bảo vệ quyền tự do dân chủ của công dân và tiến bộ xã hội.
1.2. Khái niệm, đặc điểm và quy trình áp dụng pháp luật trong kiểm sát điều tra các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm, quy trình của áp dụng pháp luật trong điều tra các vụ án hình sự
1.2.1.1. Khái niệm áp dụng pháp luật trong kiểm sát điều tra các vụ án hình sự
Nghiên cứu về áp dụng pháp luật trong hoạt động kiểm sát điều tra các vụ án hình sự có ý nghĩa quan trọng, nhằm phát triển lý luận về áp dụng pháp luật nói chung và áp dụng pháp luật trong từng lĩnh vực cụ thể nói riêng.
áp dụng pháp luật trong KSĐT các vụ án hình sự là một dạng của áp dụng pháp luật nói chung. áp dụng pháp luật trong KSĐT các vụ án hình sự thuộc trường hợp áp dụng pháp luật: Khi Nhà nước thấy cần thiết phải tham gia bằng hình thức giám sát hoạt động của các chủ thể tham gia trong các quan hệ điều tra, KSĐT các vụ án hình sự. Cơ sở phát sinh hoạt động áp dụng pháp luật của VKSND đó là các quyết định của cơ quan điều tra, các hành vi của những người tiến hành tố tụng trong hoạt động TTHS. Các quyết định và các hành vi đó có thể được ban hành, thực hiện theo đúng hoặc không đúng quy định của pháp luật. Khi đó Nhà nước thông qua hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKSND, nhằm phát hiện những sai phạm, kịp thời đề ra các yêu cầu, kiến nghị các chủ thể trong quá trình điều tra các vụ án hình sự, khắc phục, sửa chữa; đảm bảo cho việc giải quyết các vụ án hình sự được tuân thủ theo các quy định của pháp luật.
Dưới góc độ lý luận chung về áp dụng pháp luật, áp dụng pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật, là hoạt động mang tính tổ chức quyền lực nhà nước của các cơ quan có thẩm quyền nhằm cá biệt hóa những vi phạm pháp luật vào từng trường hợp cụ thể đối với những cá nhân, đơn vị, tổ chức cụ thể. áp dụng pháp luật trong KSĐT các vụ án hình sự có thể coi là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước của VKSND nhằm cá biệt hóa các quy phạm pháp luật nói chung và các quy phạm pháp luật TTHS nói riêng đối với các chủ thể trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự.
Từ khái niệm về áp dụng pháp luật nói chung, có thể hiểu áp dụng pháp luật trong hoạt động KSĐT các vụ án hình sự của VKSND là hoạt động thực hiện pháp luật nhằm đảm bảo cho toàn bộ hoạt động điều tra các vụ án hình sự của cơ quan điều tra và hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKSND được tuân thủ theo đúng quy định của pháp luật.
1.2.1.2. Đặc điểm áp dụng pháp luật trong KSĐT các vụ án hình sự
Hoạt động áp dụng pháp luật trong KSĐT các vụ án hình sự của VKSND có một số đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, áp dụng pháp luật trong KSĐT các vụ án hình sự là hoạt động chỉ do VKSND tiến hành theo pháp luật quy định.
Theo quy định của pháp luật thì VKSND các cấp là cơ quan có chức năng thực hiện quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Thông qua việc thực hiện chức năng này, VKSND góp phần thực hiện quyền lực nhà nước, trực tiếp thực hiện quyền tư pháp góp phần bảo vệ pháp chế XHCN, bảo vệ chế độ XHCN, quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân. Bảo đảm mọi hành vi xâm phạm tới lợi ích của Nhà nước, của tập thể và lợi ích hợp pháp của công dân phải được xử lý nghiêm minh trước pháp luật.
Là cơ quan duy nhất nhằm thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan tư pháp và thực hành quyền công tố. Hoạt động KSĐT các vụ án hình sự được quy định tại Điều 12, 13, 14 Luật tổ chức VKSND năm 2002.
Tại Điều 13 Luật tổ chức VKSND năm 2002 quy định nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra:
- Khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can, yêu cầu cơ quan điều tra khởi tố hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can.
- Đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu cơ quan điều tra tiến hành điều tra; trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định của pháp luật.
- Yêu cầu thủ trưởng cơ quan điều tra thay đổi điều tra viên theo quy định của pháp luật; nếu hành vi của điều tra có dấu hiệu tội phạm thì khởi tố về hình sự.