Về Việc Khám Nghiệm Hiện Trường, Khám Nghiệm Tử Thi

- Theo Điều 119 và Điều 120 BLTTHS năm 2003 quy định, thời hạn điều tra tội ít nghiêm trọng và tội nghiêm trọng dài hơn thời hạn tạm giam. Quy định trên là không hợp lý bởi có trường hợp thời hạn tạm giam đã hết, nhưng việc điều tra vụ án vẫn chưa kết thúc; nếu thả tự do cho bị can thì sẽ gây khó khăn cho hoạt động điều tra. Nên quy định thời hạn điều tra bằng thời hạn tạm giam để đảm bảo việc áp dụng pháp luật trong KSĐT các vụ án hình sự được thống nhất.

- Tại Điều 121 BLTTHS năm 2003 quy định việc gia hạn điều tra chỉ áp dụng đối với loại tội: nghiêm trọng, rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng. Việc điều luật không quy định cho phép gia hạn điều tra đối với loại tội ít nghiêm trọng là không phù hợp. Bởi lẽ có nhiều trường hợp phạm tội ít nghiêm trọng nhưng trong vụ án có nhiều bị can tham gia; tính chất phức tạp … nếu không gia hạn điều tra sẽ không đảm bảo được thời hạn điều tra vụ án hình sự. Do đó, cần quy định được gia hạn điều tra đối với cả những tội phạm ít nghiêm trọng, thời hạn gia hạn tối thiểu là một tháng.

3.1.4. Về việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi


Điều 150 BLTTHS năm 2003 quy định việc khám nghiệm hiện trường do điều tra viên tiến hành, phải có kiểm sát viên tham gia để thực hiện chức năng kiểm sát. Tuy nhiên, trong thực tế có rất nhiều vụ việc, do ban đầu chưa thể xác định được việc có dấu hiệu của tội phạm nên cơ quan công an không thông báo cho VKS biết để cử kiểm sát viên tham gia khám nghiệm; hơn nữa khám nghiệm hiện trường nhiều trường hợp không bắt buộc điều tra viên phải tham gia. Ví dụ, đối với các vụ án vi phạm Luật lệ giao thông, cố ý gây thương tích … khi phát hiện vụ việc, ban đầu nạn nhân chưa chết hoặc không có biểu hiện bị thương nặng, bị tử vong nên cán bộ Cảnh sát giao thông hoặc do Công an cấp xã, phường, thị trấn vẫn tiến hành khám nghiệm; không mời điều tra viên, kiểm sát viên tham gia khám nghiệm. Trong quá trình giải quyết vụ việc thì nạn nhân chết hoặc do thương tích kín dẫn tới tử vong hoặc thương tích nặng đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự. Từ đây, xuất hiện những vấn đề rất phức tạp về nhận thức và vận dụng; quyết định của VKS cũng rất khó khăn, mỗi địa phương, mỗi đơn vị tùy theo tình hình thực tế của địa phương mình mà áp dụng những biện pháp phù hợp nhất. Những vấn đề này đang

cần phải được liên ngành Trung ương hướng dẫn ngay để đảm bảo cho việc áp dụng pháp luật trong lĩnh vực này.


3.1.5. Về việc tạm đình chỉ, đình chỉ điều tra


- Trong thực tế đã có trường hợp bị can đã bị khởi tố nhưng sau khi kết thúc điều tra thấy rằng việc điều tra, truy tố hoặc đình chỉ là chưa đủ căn cứ mà phải chờ bắt được các bị can khác còn đang lẩn trốn thì mới có cơ sở kết luận bị can này có phạm tội hay không. Nhưng theo quy định tại Điều 160 BLTTHS năm 2003 lại không quy định về những trường hợp cần tạm đình chỉ điều tra đối với trường hợp trên nên đã gây khó khăn cho các cơ quan tiến hành tố tụng khi áp dụng.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 123 trang tài liệu này.

- Theo Điều 164 BLTTHS năm 2003 quy định, cơ quan điều tra ra quyết định đình chỉ điều tra trong những trường hợp sau:

+ Có một trong những căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 105 và Điều 107 BLTTHS năm 2003 hoặc Điều 19, Điều 25, Điều 69 khoản 2 của BLHS năm 1999.

Nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật trong kiểm sát điều tra các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Ninh - 11

+ Đã hết thời hạn điều tra mà không chứng minh được bị can đã thực hiện tội

phạm.


Thực tế, có trường hợp cơ quan điều tra khởi tố vụ án hình sự vì có dấu hiệu của

tội phạm, nhưng đã hết thời hạn điều tra mà vẫn không xác định được người phạm tội; do đó cơ quan điều tra đã phải quyết định tạm đình chỉ điều tra vụ án. Tuy nhiên, mãi sau này vẫn chưa xác định được người phạm tội thì không thể kéo dài mãi việc tạm đình chỉ; trong khi muốn đình chỉ vụ án thì Luật lại không quy định. Do vậy nên bổ sung trên căn cứ đình chỉ điều tra là: hết thời hạn điều tra mà vẫn không xác định được người phạm tội.

3.2. nhóm Giải pháp thực hiện pháp luật nhằm nâng cao chất lượng công tác kiểm sát điều tra các vụ án hình sự

3.2.1. Nhóm giải pháp của lực lượng Cảnh sát nhân dân


3.2.1.1. Dự báo tình hình và yêu cầu nâng cao hiệu quả hoạt động điều tra tội phạm của lực lượng Cảnh sát nhân dân

Muốn cho hoạt động điều tra của lực lượng Cảnh sát nhân dân có hiệu quả; một điều rất quan trọng là lực lượng này cần phải biết dự đoán tình hình diễn biến vi phạm và tội

phạm. Trong những năm đầu thế kỷ 21, tình hình kinh tế - xã hội của đất nước ta không có sự đột biến lớn, vẫn ổn định và xu thế quốc tế hóa, toàn cầu hóa đang diễn ra với mức độ và quy mô rộng lớn. Việt Nam sẽ ra nhập các tổ chức kinh tế quốc tế. Vấn đề dân chủ được mở rộng trên bề mặt. Trong tình hình đó, tội phạm sẽ có chiều hướng gia tăng cả về số lượng lẫn tính chất mức độ tội phạm; cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm không chỉ bó hẹp trong địa bàn một tỉnh mà còn mở rộng phạm vi toàn quốc và quốc tế. Trong những năm tới, tình hình tội phạm sẽ diễn biến hết sức phức tạp, nhiều nhóm tội phạm có tổ chức, bọn tội phạm sẽ thực hiện các hành vi mới như: đâm thuê, chém mướn, buôn bán phụ nữ, trẻ em, mại dâm, bọn tội phạm sẽ sử dụng các công nghệ thông tin tiên tiến để tiến hành các hành vi tội phạm với hậu quả ngày càng nghiêm trọng; chúng cấu kết chặt chẽ với nhau, tìm đủ thủ đoạn, kể cả thủ đoạn mua chuộc những cán bộ có chức, có quyền trong các cơ quan bảo vệ pháp luật.

Nhận thức được dự báo trên, đòi hỏi lực lượng Cảnh sát nhân dân phải có những bước chuẩn bị kỹ càng, chuẩn bị lực lượng, phương tiện để sẵn sàng đấu tranh với vi phạm, tội phạm mới trong thời đại mới.

Phương hướng chung của lực lượng Công an nhân dân, đó là phải quán triệt quan điểm của Đảng về việc cải cách nền hành chính quốc gia; đổi mới hoạt động của cơ quan điều tra theo hướng gọn nhẹ, chuyên sâu, hợp lý, sử dụng đồng bộ lực lượng, phương tiện trong đấu tranh với tội phạm. Đồng thời với việc kiện toàn bộ máy của lực lượng Cảnh sát nhân dân, nhất là cảnh sát điều tra; đảm bảo việc kết hợp các biện pháp điều tra trinh sát với hoạt động điều tra tố tụng.


3.2.1.2. Hoàn thiện và ổn định về mặt tổ chức


Việc hoàn thiện và ổn định về mặt tổ chức, chính là nhằm thực hiện nhiệm vụ chuyên môn theo yêu cầu thực tế đặt ra.

Trước hết, mô hình chung của bộ máy điều tra cần phải được hợp lý hóa; phân công, phân cấp rõ ràng và thống nhất trong hoạt động nhận thức điều tra tội phạm và đặc biệt là phải thống nhất được hoạt động điều tra liên tục, gắn bó cùng phát huy hiệu quả, cùng hỗ trợ tác động các biện pháp, chiến thuật trong điều tra tội phạm. Cơ quan Cảnh sát điều tra có thể bao gồm các đơn vị phòng ngừa và các đơn vị điều tra tội phạm xâm phạm trật tự an toàn xã hội; phòng ngừa và điều tra tội phạm về ma túy. Mô hình này phải được

tổ chức thống nhất từ Trung ương đến cấp quận - huyện. Theo hướng này, hoàn toàn có thể đáp ứng được các yêu cầu đã đặt ra. Tổ chức như vậy, không phải là không kín, vì thực chất hoạt động điều tra của các cơ quan điều tra tội phạm mới chỉ là bước ban đầu; tiếp theo của nó là hoạt động điều tra, truy tố và xét xử. Quá trình điều tra ở giai đoạn tố tụng còn phải chịu sự giám sát của VKS cùng cấp; chịu sự quản lý của ngành dọc cấp trên. Với mô hình bộ máy điều tra theo hướng chuyên sâu thì việc điều tra khám phá tội phạm sẽ đảm bảo kịp thời, chính xác và mang cả tính phòng ngừa cao.

3.2.1.3. Tăng cường công tác giáo dục, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên sâu và kiến thức pháp luật cho cán bộ, điều tra viên; tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm tra, đảm bảo tính kỷ cương trong hoạt động điều tra

Bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên sâu và kiến thức pháp lý cho điều tra viên phải được quan tâm đúng mức, thường xuyên, liên tục theo từng chuyên đề, có tính hệ thống, có kiểm tra, đánh giá và phải được lấy đó làm cơ sở bước đầu cho việc tính toán đến công tác tổ chức cán bộ làm công tác điều tra các vụ án hình sự.

Công tác thanh tra, kiểm tra phải đáp ứng yêu cầu phát hiện, uốn nắn những sai sót kịp thời; đảm bảo cho hoạt động điều tra luôn đảm bảo tính pháp chế XHCN và yêu cầu nhiệm vụ của ngành Công an đã đặt ra.

3.2.2. Nhóm giải pháp của ngành kiểm sát nhân dân


3.2.2.1. Tăng cường vai trò lãnh đạo của các cấp ủy Đảng trong các cơ quan Viện kiểm sát

Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội một cách toàn diện là nguyên tắc cơ bản đã được ghi nhận trong Hiến pháp. Do vậy, hoạt động của VKSND cũng như các hoạt động của cơ quan trong bộ máy nhà nước đều đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Thực tế cho thấy, nơi nào quán triệt đầy đủ, sâu sắc các đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, bảo đảm sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của cấp ủy địa phương và nơi nào có cơ sở Đảng trong sạch, vững mạnh thì nơi đó sẽ hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ của mình.

Vấn đề đặt ra là phải nhận thức đúng, đầy đủ bản chất về vấn đề tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, ở đây Đảng không thể "làm thay, nói hộ" mà chỉ lãnh đạo trên

phương diện đường lối, chủ trương, chính sách, không can thiệp sâu vào chuyên môn nghiệp vụ và không can thiệp vào những vấn đề thuộc chức năng, nhiệm vụ của ngành. Mặt khác, Đảng lãnh đạo một cách toàn diện không đồng nghĩa làm mất đi tính độc lập, chủ động mà còn làm cho quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành đúng đường lối, chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước.

Từ những vấn đề vừa trình bày ở trên, để công tác kiểm sát hoạt động tư pháp của ngành kiểm sát nói chung, hoạt động áp dụng pháp luật trong KSĐT các vụ án hình sự nói riêng, đúng hướng và có chất lượng cao thì đòi hỏi tăng cường sự lãnh đạo của Đảng một cách toàn diện:

- Trước hết phải quán triệt, nắm vững, vận dụng sáng tạo đường lối của Đảng và Nghị quyết của cấp ủy Đảng, đồng thời phải thường xuyên báo cáo công tác và tranh thủ sự lãnh đạo, chỉ đạo của Cấp ủy địa phương trong việc thực hiện tốt kế hoạch công tác, trong đường lối giải quyết các vụ án nghiêm trọng, vụ án lớn, vụ án được dư luận quan tâm nói chung và áp dụng pháp luật trong KSĐT các vụ án hình sự nói riêng, trong vấn đề quản lý đảng viên, trong việc sử dụng quy hoạch, đề bạt và bổ nhiệm…

- Tranh thủ về đường lối, ý kiến chỉ đạo của cấp ủy địa phương để nắm bắt những yêu cầu nhiệm vụ của địa phương, từ đó đề ra kế hoạch công tác, xây dựng đội ngũ cán bộ cho phù hợp với tình hình thực tế và mang hiệu quả cao. Ngoài ra, trong công tác xây dựng Đảng, xây dựng và quản lý cán bộ kiểm sát viên cũng phải quán triệt tư tưởng chỉ đạo theo nguyên tắc tập trung dân chủ để lựa chọn những cán bộ kiểm sát viên có đầy đủ phẩm chất đạo đức, năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ đảm nhiệm tốt những vị trí quan trọng đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới hiện nay.

- Phải làm tốt công tác kiểm tra để phát hiện uốn nắn những sai sót đồng thời xử lý nghiêm những cán bộ kiểm sát viên, đảng viên có những biểu hiện tiêu cực, tha hóa biến chất không còn xứng đáng đứng trong hàng ngũ của Đảng. Đây là một trong những biện pháp để tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng.

Như vậy, tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng có một vị trí, vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình thực hiện chức năng nhiệm vụ của ngành nói chung,

trong áp dụng KSĐT các vụ án hình sự nói riêng và đáp ứng yêu cầu trong công cuộc cải cách tư pháp hiện nay.

3.2.2.2. Nâng cao ý thức đạo đức, năng lực chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ, kiểm sát viên và các chủ thể có thẩm quyền áp dụng pháp luật trong kiểm sát điều tra các vụ án hình sự

* Nâng cao ý thức chính trị và phẩm chất đạo đức cho cán bộ, kiểm sát viên:


Nghị quyết số 08/NQ - TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam đánh giá về công tác cán bộ của các cơ quan tư pháp:

Phần lớn cán bộ làm công tác tư pháp giữ vững phẩm chất chính trị, có tinh thần trách nhiệm và hoàn thành nhiệm vụ, nhiều đồng chí đã tận tụy với công việc, có trường hợp đã hy sinh cả tính mạng trong cuộc đấu tranh chống tội phạm

Đối với ngành kiểm sát, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã rất quan tâm, chỉ đạo; Chủ tịch yêu cầu cán bộ kiểm sát phải: "Công minh, chính trực, khách quan, thận trọng". Đó cũng chính là khẩu hiệu mà toàn ngành kiểm sát ra sức phấn đấu, thực hiện. Hầu hết cán bộ, kiểm sát viên ngành kiểm sát nhân dân đã quán triệt sâu sắc tinh thần trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh; luôn rèn luyện ý thức chính trị, đạo đức nghề nghiệp, có lập trường tư tưởng vững vàng, kiên định.

Tuy nhiên vẫn còn một số ít cán bộ, kiểm sát viên VKS chưa thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh một cách sâu sắc. Còn có những cán bộ, kiểm sát viên không thấm nhuần lời dạy của Bác, bị sa ngã, thoái hóa biến chất, thiếu bản lĩnh trong cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, để bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội.

Hiện nay, trong giai đoạn cải cách tư pháp; việc nâng cao ý thức chính trị và phẩm chất đạo đức cho cán bộ, kiểm sát viên ngành kiểm sát nói chung và trong hoạt động KSĐT các vụ án hình sự nói riêng được đặt ra cấp bách. Để làm được điều này, cần thực hiện một số vấn đề sau:

- Quán triệt sâu sắc và sâu rộng đường lối chính sách của Đảng; pháp luật của Nhà nước; cụ thể hóa bằng nhiệm vụ phù hợp với điều kiện của từng đơn vị mình.

- Tổ chức các lớp học tập, nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho cán bộ, kiểm sát viên; phấn đấu 100% kiểm sát viên có trình độ lý luận chính trị từ trung cấp trở lên.

- Hưởng ứng các cuộc vận động; các cuộc thi tìm hiểu về Đảng, về Bác Hồ, về địa phương và về ngành Kiểm sát nhân dân để dấy lên phong trào thi đua sôi nổi trong từng cán bộ, kiểm sát viên ở các đơn vị trong toàn ngành kiểm sát tỉnh Bắc Ninh.

- Lấy kết quả học tập; nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh là một trong những tiêu chuẩn đánh giá, xếp loại cán bộ, kiểm sát viên hàng năm.

* Nâng cao nhận thức về năng lực chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ kiểm sát viên:

Mỗi cán bộ - Kiểm sát viên ngành kiểm sát phải nắm vững, nhận thức và thực hiện đầy đủ chức năng, nhiệm vụ của ngành. Việc nắm vững được chức năng, nhiệm vụ của ngành cũng giúp cho cán bộ - Kiểm sát viên xác định được mối liên hệ giữa quyền hạn và trách nhiệm khi thực hiện nhiệm vụ; buộc cán bộ - Kiểm sát viên phải gắn trách nhiệm của ngành, của cá nhân mình với công việc đang thực hiện.

Việc nắm vững và nhận thức đầy đủ chức năng, nhiệm vụ của ngành không chỉ đảm bảo mọi hành vi vi phạm pháp luật đều phải được phát hiện, xử lý kịp thời, góp phần đảm bảo pháp chế XHCN mà còn hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung trong KSĐT các vụ án hình sự nói riêng. Ngược lại, nếu không nắm vững chức năng nhiệm vụ của ngành thì sẽ không thực hiện đúng, thực hiện hết chức năng, không đáp ứng được với yêu cầu, nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước đã giao cho ngành kiểm sát nhân dân.

Công tác KSĐT các vụ án hình sự là một giai đoạn quan trọng trong cả các giai đoạn tố tụng. Đòi hỏi người cán bộ - Kiểm sát viên phải có năng lực chuyên môn nghiệp vụ vững vàng. Có được những yếu tố trên sẽ giúp cho người cán bộ - Kiểm sát viên khi thực hiện nhiệm vụ sẽ có những đề xuất, quyết định, áp dụng pháp luật đúng đắn, chủ động, linh hoạt, sáng tạo.

Để nâng cao việc nhận thức pháp luật và chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ kiểm sát viên; một biện pháp cũng quan trọng đó là VKSND tỉnh Bắc Ninh cần phải thường xuyên tổ chức những cuộc hội thảo theo các chuyên đề; tổ chức những cuộc thi tìm hiểu

kiến thức pháp luật; những cuộc thi xử lý các tình huống trong hoạt động KSĐT; thi viết cáo trạng, luận tội … nhằm thúc đẩy phong trào hăng say nghiên cứu, học tập nhiệm vụ chuyên môn.

Đối với công tác tổ chức cán bộ, nên chấm dứt tình trạng những người không có bằng cử nhân luật được tiếp nhận vào làm công việc hành chính, sau đó cử đi học các hệ đào tạo không chính quy để rồi bố trí số người này vào làm công tác chuyên môn nghiệp vụ. Mặt khác, trong công tác cán bộ cũng nên chú ý, đào tạo cho những cán bộ có năng lực, có khả năng đi học sau đại học hoặc làm nghiên cứu sinh để họ có thể trở thành những chuyên gia hàng đầu trong những khâu công tác nghiệp vụ.

* Nâng cao tinh thần trách nhiệm, trình độ pháp luật, phẩm chất đạo đức chính trị của các chủ thể có thẩm quyền áp dụng pháp luật trong hoạt động KSĐT các vụ án hình sự

Trong hoạt động áp dụng pháp luật KSĐT các vụ án hình sự thì tinh thần trách nhiệm, trình độ năng lực pháp luật của các chủ thể có thẩm quyền như: Viện trưởng, Phó viện trưởng VKSND các cấp là nhân tố vô cùng quan trọng đảm bảo cho việc áp dụng pháp luật được đầy đủ, chính xác; tạo được uy tín của cả ngành kiểm sát. Muốn vậy, cần đòi hỏi:

- Rà soát lại trình độ, năng lực của đội ngũ Viện trưởng, Phó viện trưởng các cấp, đặc biệt là ở cấp huyện - thành phố theo các yêu cầu sau:

+ Trình độ văn hóa và trình độ lý luận chính trị; trình độ chuyên môn nghiệp vụ; số đã được đào tạo cơ bản và đào tạo không cơ bản; số có trình độ, năng lực còn có thể đào tạo và số không còn khả năng đào tạo.

+ Đánh giá, phân loại khả năng giải quyết công việc thực tế của họ; để từ đó có những đề xuất, biện pháp đào tạo lại, bố trí sắp xếp công việc hợp lý.

- Thường xuyên tổ chức bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho những đối tượng này để họ có thể nắm chắc, vận dụng thành thạo các thao tác nghiệp vụ trong hoạt động KSĐT các vụ án hình sự để giúp họ chỉ đạo tốt ở đơn vị mình.

Xem tất cả 123 trang.

Ngày đăng: 15/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí