1.5.3. Phân loại rối nhiễu lo âu.
Sự phân loại các rối loạn lo âu theo DSM-IV-TR bao gồm:
- Rối loạn lo âu toàn thể (LATT).
- Rối loạn hoảng loạn (có hoặc không có ám ảnh sợ khoảng trống).
- Các ám ảnh sợ chuyên biệt và sợ xã hội.
- Rối loạn ám ảnh bó buộc (AABB).
- Rối loạn stress sau chấn thương (SSCT).
- Rối loạn stress cấp (SC).
Các chẩn đoán rối loạn lo âu do một bệnh thực thể hoặc rối loạn lo âu do chất được sử dụng nếu bệnh thực thể hoặc sử dụng chất hoặc cai chất là nguyên nhân chính của những triệu chứng lo âu này.
Các rối loạn lo âu được phân biệt với nhau bởi sự hiện diện hay không của một yếu tố sang chấn môi trường rõ rệt (hiện diện trong các ám ảnh sợ, SSCT, và SC; và không hiện diện trong rối loạn hoảng loạn, AABB, và LATT) cũng như mô hình triệu chứng xuất hiện và biến mất (ví dụ, cấp tính trong rối loạn hoảng loạn, mạn tính trong LATT).
1.5.4. Nguyên nhân rối nhiễu lo âu.
Các rối loạn lo âu nằm trong số các vấn đề sức khoẻ tâm thần được điều trị thường gặp nhất. Cả hai yếu tố tâm lý xã hội và sinh học có liên quan đến căn nguyên của chúng. Các yếu tố tâm lý xã hội bao gồm học kém thích ứng đưa đến sợ một thứ hoặc tình huống vô hại và tiếp xúc với yếu tố sang chấn mạnh. Các yếu tố sinh học bao gồm di truyền và giới. Các rối loạn lo âu thường thấy trong các thành viên gia đình của người bệnh nhiều hơn trong dân số chung, và tỉ lệ hoà hợp của chúng cao hơn trong số sinh đôi đơn hợp tử so với dị hợp tử. So sánh với đàn ông, phũ nữ gấp hai đến ba lần khả năng rối loạn hoảng loạn, hai lần khả năng phát triển SSCT khi tiếp xúc với một yếu tố sang chấn mạnh, và nhiều hơn một chút về LATT (55% đến 60% so với 40% đến 45%).
Những liên quan đến sinh lý thần kinh. Hoạt động dẫn truyền thần kinh bị thay đổi đi kèm với những triệu chứng lo âu; đặc biệt là giảm hoạt động serotonin và gamma- aminobutyric acid (GABA); giảm gắn kết thụ thể GABA-benzodiazepine [67]; và tăng hoạt động của norepinephrine. Về giải phẫu thần kinh, nhân xanh, là vị trí của các tế bào thần kinh noradrenergic; nhân bèo; là vị trí của các tế bào thần kinh serotonergic; vỏ não thái dương; vỏ não trán; và nhân đuôi (đặc biệt trong AABB) được coi là liên quan đến sự phát triển của các rối loạn lo âu.
Các nguyên nhân thực thể của những triệu chứng lo âu bao gồm uống cà phê quá nhiều, lạm dụng và cai chất, cường giáp, thiếu sinh tố B12, giảm hoặc tăng đường máu, thiếu máu, và u tủy thượng thận, u nằm ở tủy thượng thận tiết epinephrine. Vì những triệu chứng lo âu (khó thở, khó chịu ở ngực, nhịp tim nhanh, và đổ mồ hôi) cũng xảy ra trong các rối loạn tim mạch như loạn nhịp tim và các rối loạn hô hấp như bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, các rối loạn này phải được loại trừ.
Lo âu được nhận thấy ở nhiều người bệnh trầm cảm, và những người bệnh có rối loạn lo âu thường kèm với rối loạn trầm cảm chủ yếu và rối loạn loạn khí sắc. Do đó, có thể khó phân biệt giữa các rối loạn lo âu và trầm cảm. Mối liên quan sinh học gần gũi giữa các nhóm rối loạn này được củng cố bởi các nghiên cứu cho thấy các bất thường thần kinh nội tiết và các thay đổi điện não đồ trong giấc ngủ giống nhau ở những người bệnh AABB và rối loạn trầm cảm chủ yếu.
Các rối loạn lo âu phải được phân biệt với các giai đoạn tiền triệu và loạn thần của tâm thần phân liệt khi mà lo âu thường nổi bật và lo âu nghi bệnh, trong đó có đau khổ quan trọng mà không phát hiện có bệnh thực thể nặng.
1.5.5. Liệu pháp trị liệu rối nhiễu lo âu. Bảng 1.4. Điều trị rối nhiễu lo âu.
HÓA DƯỢC | TÂM LÝ | |
Rối loạn hoảng loạn có hoặc không có ám ảnh sợ khoảng trống | Điều trị cấp cứu: BZD tác dụng nhanh Điều trị dài hạn: SSRI Kết hợp SSRI và BZD BZD tác dụng trung bình hoặc kéo dài Chất đối vận beta-adrenergic (ví dụ, propranolol [Inderal]) đối với những triệu chứng thực vật | Giải mẫn cảm hệ thống và liệu pháp nhận thức hành vi hữu ích kết hợp với liệu pháp hoá dược |
Ám ảnh sợ chuyên biệt | Không có điều trị hoá dược tốt Chất đối vận beta-adrenergic | Liệu pháp nhận thức hành vi Giải mẫn cảm hệ thống Liệu pháp hành vi khác (ví dụ, ngập lụt và bùng nổ; Thôi miên, liệu pháp gia đình và liệu pháp tâm lý |
Ám ảnh sợ xã hội | SSRI (vd, paroxetine [Paxil]) hoặc venlafaxine (Effexor) MAOI (ví dụ, phenelzine [Nadril]) Chất đối vận beta-adrenergic | Rèn luyện sự quả quyết Liệu pháp nhóm |
Rối loạn ám ảnh bó buộc | SSRI (ví dụ, fluvoxamine [Luvox]) Clomipramine (Anafranil) | Liệu pháp hành vi Liệu pháp tâm lý nâng đỡ |
Rối loạn lo âu toàn thể | Buspiron (BuSpar) Venlafaxine Doxepin (Adapin) BZD tác dụng trung bình (ví dụ, lorazepam [Ativan]) Chất đối vận beta-adrenergic | Liệu pháp nhận thức hành vi và liệu pháp tâm lý khác hữu ích đối với những triệu chứng mạn tính |
Rối loạn stress sau chấn thương | SSRI (ví dụ, sertraline [Zoloft]) Thuốc chống động kinh (ví dụ, carbamazepin [Tegretrol]) Thuốc chống loạn thần (ví dụ, olanzapine [Zyprexa]) Chất đối vận beta-adrenergic | Nhóm nâng đỡ như những nhóm sống sót Liệu pháp tâm lý |
BZD: benzodiazepine; MAOI: chất ức chế men oxy hoá monoamine; SSRI: chất ức chế tái hấp thu serotonin chọn lọc, các điều trị (thứ tự trên xuống về tiện dụng cho mỗi sự phân loại). |
Có thể bạn quan tâm!
- Các Mức Độ Rối Nhiễu Tâm Lý. (Nguồn: Apa – Hiệp Hội Tâm Lý Học Hoa Kỳ [33], Sức Khỏe Tâm Lý Được Biễu Diễn Là Hàm Số Liên Tục Khác Quan
- Khái Niệm Rối Nhiễu Trầm Cảm.
- Sơ Đồ Chẩn Đoán Cho Một Người Bệnh Có Khí Sắc Trầm Sau Khi Đã Loại Trừ Các Nguyên Nhân Thực Thể Và Dược Lý Của Các Triệu Chứng (Nguồn
- Tổ Chức Và Phương Pháp Nghiên Cứu
- Thực Trạng Rối Nhiễu Tâm Lý Trong Sinh Viên
- Thời Gian Đọc Sách Tham Khảo Và Giải Trí Của Sinh Viên
Xem toàn bộ 121 trang tài liệu này.
1.6. RỐI NHIỄU TÂM LÝ Ở SINH VIÊN.
Giai đoạn sinh viên bắt đầu đối với mỗi người là từ sau 18 tuổi. Phần đông đối tượng sinh viên Việt Nam nằm trong độ tuổi từ 18 đến 25, là giai đoạn chuyển tiếp từ tuổi vị thành niên lên tuổi trưởng thành. Vì vậy, có thể nói đối tượng sinh viên một mặt vẫn còn mang những đặc điểm của tuổi vị thành niên, mặt khác đã bắt đầu mang những đặc điểm của tuổi trưởng thành. Tâm lý sinh viên vẫn còn một phần nào đó không ổn định của tuổi chưa thành niên. Đặc biệt đối với sinh viên năm đầu, viêc thích nghi những thay đổi từ môi trường mới, bạn bè mới, cách học mới...dễ làm gia tăng tình trạng bất ổn định về mặt tâm lý, cảm xúc.
Bên cạnh đó, sinh viên cũng là những người có nhận thức và tư duy rất rõ ràng về mục tiêu cuộc sống, về những gì mình đã làm, đang làm và phải làm. Chính vì vậy mà sinh viên đặc biệt là sinh viên năm cuối có phần mang tâm lý nặng nề để vừa hoàn thành tốt việc học vừa phải phát triển tốt các mối quan hệ xã hội và từng bước hoàn thành các mục tiêu cuộc sống sau này (có nghề nghiệp tốt, lập gia đình...) [45],[46]. Ngoài đặc điểm về tâm lý thì điều kiện kinh tế hay hoàn cảnh sống cũng như tất cả các mối quan hệ xã hội cũng ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe tâm lý của sinh viên. Những sinh viên sống xa nhà có điều kiện kinh tế khó khăn phải vừa học vừa làm thêm thì áp lực cuộc sống cũng như áp lực từ việc học có nhiều khả năng gây lo âu, trầm cảm, stress hơn. Nguy cơ rối loạn tâm thần của nhóm đối tượng này có thể ngày càng cao. Theo Facundes V.I & Ludermir A.B thì tỉ lệ mắc những rối loạn tâm thần thường gặp trên các sinh viên chuyên ngành chăm sóc sức khỏe là 31,4% và tỷ lệ này cao hơn ở nhóm đối tượng sinh viên cảm thấy quá tải trong việc học (OR=2,67) và những sinh viên gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống (OR=2,25). Có thể hiểu rằng trục trặc về sức khỏe tâm lý thường là những rối loạn trong trạng thái cảm xúc, nó cản trở năng lực nhận thức, tình cảm và xã hội của con người.
Thời gian học là 4 đến 6 năm, trong đó 2 năm đầu để học các môn cơ bản, rất nặng nề. Tất cả sinh viên ở các khoa điều học chung những học phần này nội, ngoại, sản, nhi, da liễu, tâm lý học sức khỏe, tâm thần,.... Sau đó 2 năm cuối tùy theo tính chất ngành mà sinh viên sẽ thực hành tại bệnh viện, hay cộng đồng. Trong giai đoạn học các môn chuyên ngành sinh viên được trang bị các kiến thức chuyên sâu, và có thể làm luận văn tốt nghiệp hoặc thi tốt nghiệp.
Sinh viên phải thực hành các kỹ năng được đào tạo như giao tiếp giữa thầy thuốc và bệnh nhân, kỹ năng khám, kỹ năng ra quyết định. Sinh viên năm 1 và năm cuối đa phần là gặp vấn đề về áp lực học tập, thời gian học dài hơn so với các ngành học khác, chuẩn bị luận văn hay thi tốt nghiệp trong thời gian đi thực hành ở cộng đồng. Về mặt cảm xúc, sinh viên hàng ngày phải đối mặt với sự đau khổ của bệnh nhân, giữa sự sống và cái chết, bao gồm cả cái chết của người thân, họ phải chuẩn bị tinh thần mạnh mẽ trong những tình huống stress mà học phải trãi qua. Tất cả những yếu tố về tâm sinh lý, các mối quan hệ xã hội hay
điều kiện sống và học tập ít nhiều đã ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe tâm lý và thể chất của sinh viên [10]. Một trong những ảnh hưởng đó, cụ thể là các rối loạn về trạng thái cảm xúc như lo âu, stress, buồn rầu, hụt hẫng, mệt mỏi...Có những sinh viên phải bỏ học không tiếp tục vì không thể chấp nhận được khi chứng kiến cái chết của bệnh nhân [7].
1.6.1.Tình cảm và công việc.
Khi đến tuổi thanh niên, phần lớn người ta đều có ý nghĩ rằng mình là ai và có vai trò gì trong thế giới này. Ý nghĩ này khiến cho một người có thể hòa đồng với người khác nhưng lại không cảm thấy bị mất cái tôi của mình. Erikson 2010 [45], mô tả thời kỳ đầu của tuổi thanh niên như là giai đoạn đối nghịch giữa sự hòa đồng và cô lập, ông hàm ý rằng đến độ tuổi này, nếu một cá nhân không phát triển tình yêu thương, cảm xúc và quan hệ sinh lý với người khác thì trong những năm sau đó họ cũng không thể làm được những điều này. Hầu hết con người phát triển mối quan hệ thân thiết với người khác thông qua việc kết hôn hoặc các mối quan hệ khác.
Sigmund Freud nói rằng ngoài tình yêu thương, một công việc tốt cũng có vai trò quan trọng đối với sức khỏe cảm xúc của người trưởng thành. Công việc này có thể được thực hiện ở bên ngoài hoặc ngay bên trong ngôi nhà của mình. Ở Mỹ, đa số đành ông ra ngoài đi làm và phát triển nghề nghiệp khi còn rất trẻ. Phụ nữ thì lúc đầu định hướng công việc như ở nhà nội trợ hoặc đi làm nhưng đến khi ngoài 30 tuổi thường lựa chọn hướng đi khác như đi làm lại hoặc tiếp tục đi học khi con họ đã đến tuổi đến trường, hoặc sau khi đã có thời gian phát triển nghề nghiệp, họ trở lại làm công việc nội trợ toàn thời gian hoặc bán thời gian.
1.6.2. Hoạt động tình dục và sự mang thai.
Tuổi vị thành niên không chỉ được ghi dấu bởi sự trưởng thành về nhận thức và sự hình thành nhân cách, nhưng cũng bởi vì sự tấn công mạnh mẽ của cảm giác giới tính. Các cảm giác này được biểu lộ qua các hoạt động cơ thể và qua sự thủ dâm. Sự thủ dâm hàng ngày xuyên suốt tuổi vị thành niên (và sau này) là việc xảy ra bình thường, và sự si mê người khác giới và đồng giới-các cảm giác yêu đối với một người không thể với tới được như là một ngôi sao nhạc rock-là bình thường. Các kinh nghiệm đồng giới có thể xãy ra suốt tuổi dậy thì và có thể hoặc không thể là sự biểu lộ ban đầu của một sự định hướng giới tính đồng giới. Và, dù cha mẹ có thể trở nên báo động, thực tiễn như trên là một phần của sự phát triển bình thường [63].
Ở Mỹ, tuổi trung bình của sự giao hợp lần đầu tiên là khoảng 16 tuổi. Trước 19 tuổi, hầu hết nam và nữ đều đã có giao hợp. Bởi vì tuổi trung bình của cuộc hôn nhân đầu tiên thì khoảng 23 tuổi, quan hệ tình dục trước hôn nhân là tiêu chuẩn trong xã hội này. Ít hơn phân nữa số trẻ vị thành niên hăng hái quan hệ tình dục có sử dụng đều đặn các biện pháp tránh thai. Các lí do cho điều này thì khác nhau, nhưng các trẻ vị thành niên thường được thuyết phục rằng chúng thì “đặc biệt” và “khác biệt” và vì vậy sẽ không bị mang thai hoặc phát triển bệnh lây truyền qua đường tình dục. Sự thuyết phục này không dựa trên thực tế. Vào năm 2000, nhóm tuổi từ 15 đến 19 có tỉ lệ bệnh lậu đặc trưng cho lứa tuổi cao nhất trong số các phụ nữ (716 trường hợp trên 100,000) và tỉ lệ cao thứ ba trong số đàn ông (328 trường hợp trên 100,000). Thực tế, bệnh chlamydia thường gặp ở phụ nữ vị thành niên (2,400 trường hợp trên 100,000) hơn ở phụ nữ lớn tuổi hơn. Các lí do khác đối với thất bại trong việc sử dụng biện pháp tranh thai ở vị thành niên bao gồm thiếu phương tiện tiếp cận trẻ hoặc không biết các phương pháp nào là hiệu quả. Các yếu tố xã hội và xúc cảm khiến trẻ vị thành niên mang thai bao gồm trầm cảm, kết quả ở trường kém, và cha mẹ li dị. Dù tỉ lệ mang thai ở trẻ vị thành niên Mỹ hiện nay đang giảm, vào năm 2000 nhóm tuổi này sinh khoảng 469,000 trẻ sơ sinh; ít nhất 8,500 trẻ được sinh bởi các bà mẹ nhỏ hơn 15 tuổi. Ngược lại, tỉ lệ mang thai trong số những bà mẹ lớn tuổi hơn, đặc biệt là những bà mẹ hơn 40 tuổi, thì đang gia tăng. Trẻ vị thành niên mang thai có thể bộc lộ ra một thử thách đối với cơ thể vì chúng gặp nguy cơ biến chứng sản khoa cao hơn các bệnh nhân lớn tuổi hơn. Điều này đúng một phần vì trẻ vị thành niên ít có khả năng tìm sự chăm sóc thai hơn các bệnh nhân lớn tuổi hơn và cũng bởi vì cơ thể của chúng chưa trưởng thành. Hầu hết sự chăm sóc y tế đối với trẻ vị thành niên (những người dưới 18 tuổi) đòi hỏi sự chấp thuận của ba mẹ. Tuy nhiên, thường thì hợp pháp và phù hợp đạo đức khi thầy thuốc hướng dẫn trẻ vị thành niên về giới tính và các biện pháp tránh thai mà không cần có sự đồng thuận của cha mẹ hoặc không cho cha mẹ biết, cũng như chữa trị các bệnh lây truyền qua đường tình dục, các vấn đề liên quan đến mang thai, và nghiện ma túy, nghiện rượu. Khi nghiên cứu về độ tuổi này, Daniel Levinson (2010) đã thấy rằng khi đến tuổi 30 người ta đã có một vai trò nhất
định trong xã hội, thể chất phát triển đầy đủ nhất và là cá nhân rất độc lập. Thông thường, đến tuổi này, độ tuổi được xem là quá trình chuyển tiếp hay là khủng khoảng tuổi 30, người ta cũng thường tự kiểm lại giai đoạn đã qua trong cuộc đời mình [63],[64].
DÀN Ý NGHIÊN CỨU
Môi trường học tập
Tính chất chuyên ngành, số năm học
Tác động tức thời và tích lũy theo thời gian
Trầm cảm Lo âu Stress | Hành vi Sang chấn |
Yếu tố tâm lý - sinh lý – xã hội: thúc đẩy phát sinh và nặng hơn
Giới tính
Nơi ở
Khoa
Phương tiện
Thái độ
Quan hệ xã hội/bạn bè