chuộng. Nhờ đó, doanh nghiệp mang lại nguồn thu ngoại tệ cho quốc gia, tăng tích lũy cho bản thân doanh nghiệp.
Góp phần tạo dựng một hệ thống thị trường đồng bộ
Tham gia vào sản xuất, kinh doanh thương mại hay dịch vụ, DNNVV góp phần phát triển không chỉ thị trường đầu ra hàng hóa dịch vụ, mà cả thị trường các yếu tố đầu vào của sản xuất: thị trường vốn vay, thị trường tư liệu sản xuất, thị trường lao động, thị trường công nghệ... Các thị trường này trở nên sôi động do số lượng DNNVV rất lớn, phân bố ở rộng khắp các vùng, miền, hoạt động trong hầu hết các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế. Hoạt động của DNNVV còn làm tăng áp lực cạnh tranh trên các thị trường, tạo động lực cho sự phát triển. Đặc biệt nó thúc đẩy phát triển thị trường địa phương, nhất là ở những vùng xa xôi còn nghèo nàn, lạc hậu.
Tạo điều kiện cho doanh nhân trưởng thành
Khởi sự với số vốn không đáng kể, con đường kinh doanh tuy chưa có nhiều thuận lợi, nhưng ngược lại đó cũng là bước tập dượt để doanh nhân học hỏi, tích lũy kiến thức và kinh nghiệm. Thực tế có nhiều doanh nhân trưởng thành từ kinh doanh nhỏ ban đầu.
1.2. Một số vấn đề cơ bản về chính sách hỗ trợ tài chính nhằm nâng cao năng lực xuất khẩu của các DNNVV
1.2.1. Tiêu chí đánh giá năng lực xuất khẩu của các DNNVV
Trước hết, năng lực xuất khẩu của doanh nghiệp thể hiện ở chất lượng nguồn nhân lực với các tiêu chí như số lượng công nhân viên, độ tuổi trung bình, mức lương trung bình, số nhân viên thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh xuất nhập khẩu và marketing xuất khẩu. Hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp có tạo ra công ăn việc làm mới hay không và trình độ nhân viên liệu có được nâng cao thông qua hoạt động xuât khẩu hay không.
Thứ hai, đó là tiêu chí về quản lý tài chính. Năng lực xuất khẩu của doanh nghiệp thể hiện ở việc quản lý nguồn vốn phục vụ xuất khẩu, khả năng tiếp cận nguồn vốn phục vụ xuất khẩu và việc quản trị rủi ro trong thanh toán.
Thứ ba là tiêu chí về quy mô sản xuất kinh doanh, cụ thể là khả năng đáp ứng được đơn đặt hàng lớn của đối tác một cách đúng yêu cầu về chất lượng, thời hạn…
Có thể bạn quan tâm!
- Một số chính sách hỗ trợ tài chính nhằm nâng cao năng lực xuất khẩu cho doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam - 1
- Một số chính sách hỗ trợ tài chính nhằm nâng cao năng lực xuất khẩu cho doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam - 2
- Vai Trò Của Các Chính Sách Hỗ Trợ Tài Chính Trong Việc Nâng Cao Năng Lực Xuất Khẩu Của Dnnvv
- Góp Phần Quan Trọng Hướng Dẫn Và Điều Tiết Hoạt Động Xuất Khẩu Của Các Dnnvv, Hướng Các Hoạt Động Đó Vào Các Ngành Nghề Và Khu Vực Cần Phát
- Một Số Chỉ Tiêu Trung Bình Về Hiệu Quả Hoạt Động Của Dnnvv 2001- 2007
Xem toàn bộ 114 trang tài liệu này.
Thứ tư đó là tiêu chí về công nghệ, dây chuyền sản xuất. Một doanh nghiệp có năng lực xuất khẩu tốt là doanh nghiệp luôn thường xuyên đầu tư đổi mới và cải tiến công nghệ cũng như sáng tạo, tìm tòi cải tiến hoạt động kinh doanh xuất khẩu.
Thứ năm, một trong những yếu tố cơ bản tạo nên năng lực xuất khẩu của doanh nghiệp đó là vấn đề quản lý chất lượng với các loại tiêu chuẩn, chứng nhận như ISO 9000, ISO 22000, ISO 14000, HACCP…
Thứ sáu, tiêu chí vô cùng quan trọng là chất lượng sản phẩm. Sản phẩm là trung tâm của cả doanh nghiệp, cả chiến lược xuất khẩu. Bản thân sản phẩm phải tốt, có sức cạnh tranh, đáp ứng được các tiêu chuẩn do thị trường và khách hàng yêu cầu thì mới có chỗ đứng trên thị trường và được đối tác nước ngoài chấp nhận.
Cuối cùng là dịch vụ hậu mãi thể hiện ở những dịch vụ hỗ trợ cho khách hàng nhập khẩu, các giá trị gia tăng, qua đó tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp, tạo được niềm tin, mối quan hệ lâu dài với bạn hàng nước ngoài.[2]
1.2.2. Một số chính sách hỗ trợ tài chính nhằm nâng cao năng lực xuất khẩu cho DNNVV
1.2.2.1. Chính sách hỗ trợ thông qua thuế
Thuế là khoản đóng góp mang tính bắt buộc, được Nhà nước quy định thành luật để người dân và các tổ chức kinh tế phải thực hiện nộp vào ngân sách Nhà nước theo từng thời kì nhất định, nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu của bộ máy Nhà nước. Nói cách khác, thuế là hình thức động viên, phân phối lại sản phẩm của xã hội, thu nhập quốc dân do các tổ chức kinh tế và người dân tạo ra để hình thành quỹ tiền tệ tập trung nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà nước. Thuế vừa là biện pháp tài chính huy động nguồn thu cho ngân sách, tạo vốn đầu tư, hướng dẫn, điều tiết sản xuất kinh doanh, xuất khẩu vừa là bộ phận cấu thành của chính sách tài khoá quốc gia. Trong các chính sách tài chính hỗ trợ xuất khẩu cho DNNVV, thuế là một trong những công cụ quan trọng nhất, đặc biệt là trong xu thế hội nhập hiện nay. Thuế trở thành một bộ phận không thể thiếu của chính sách đối ngoại của mỗi quốc gia thông
qua các hiệp định thỏa thuận về ưu đãi thuế quan giữa các nước, qua việc thực hiện quy định về thuế, trợ cấp và chống trợ cấp của WTO, của các tổ chức khu vực và thế giới…
Thuế quan là công cụ bảo hộ duy nhất cho sản xuất trong nước mà không trái với quy định của WTO. Đóng góp thuế là nghĩa vụ của mỗi tổ chức, cá nhân, đây được coi là một khoản chi phí, làm tăng thêm gánh nặng về tài chính cho các doanh nghiệp. Để hỗ trợ doanh nghiệp giảm khó khăn cũng như nâng cao năng lực xuất khẩu, các nước thường dành nhiều ưu đãi cho doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu nói riêng thông qua các ưu đãi như miễn, giảm, giãn hạn nộp thuế, hoàn thuế đối với hàng xuất khẩu.
* Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
Thuế xuất khẩu, nhập khẩu là một loại thuế gián thu đánh vào các mặt hàng mậu dịch, phi mậu dịch được phép xuất khẩu, nhập khẩu qua biên giới của một quốc gia. Thuế xuất khẩu là một biện pháp quan trọng cấu thành trong chính sách kinh tế nói chung, chính sách đối ngoại nói riêng của một quốc gia. Nhiệm vụ cơ bản của nó là điều tiết hoạt động xuất nhập khẩu, qua đó điều tiết thị trường. Bên cạnh đó, thuế xuất nhập khẩu đem lại nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, ngoài ra đây còn là biện pháp quan trọng để quản lý hoạt động ngoại thương, góp phần thực hiện chính sách kinh tế đối ngoại, đảm bảo an toàn về kinh tế và công nghệ của đất nước, giải quyết các mục tiêu phát triển kinh tế tài chính.
Thuế xuất khẩu, nhập khẩu sẽ được cộng vào giá thánh của sản phẩm, vì thế nếu giảm thuế, quy định thuế suất thấp sẽ giúp doanh nghiệp giảm giá bán của sản phẩm, điều này là một lợi thế đặc biệt của hàng xuất khẩu. Việc đánh thuế xuất nhập khẩu không những ảnh hưởng đến giá của bản thân hàng hoá xuất nhập khẩu đó mà còn ảnh hưởng đến giá của những hàng hoá liên quan, đến cung cầu hàng hoá đó trên thị trường, từ đó hướng dẫn tiêu dùng trong nước, hướng tới nâng cao mức độ chế biến nguyên liệu thô của các doanh nghiệp xuất khẩu. Điều này thể hiện bằng cách đánh thuế xuất khẩu cao vào các sản phẩm không chế biến và thấp hơn,
thậm chí không đánh thuế vào các sản phẩm đã chế biến. Như vậy, có thể tăng thêm giá trị gia tăng đối với nguyên liệu xuất khẩu, từ đó tạo thêm công ăn việc làm và thu nhập cho nền kinh tế. Thông qua biểu thuế xuất nhập khẩu, Nhà nước khuyến khích hay hạn chế xuất nhập khẩu từng mặt hàng cụ thể sao cho phù hợp với tình hình phát triển kinh tế nói chung và hoạt động sản xuất, xuất khẩu của các doanh nghiệp nói riêng.
Ngoài chính sách thuế xuất khẩu, nhiều nước còn ưu đãi về thuế đối với các đầu vào nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu. Các nguyên liệu và bán thành phẩm phục vụ cho xuất khẩu đều không đánh thuế nhập khẩu hoặc đánh thuế thấp cũng như miễn, giảm, hoàn thuế cho các doanh nghiệp xuất khẩu sản xuất hàng hóa. Đây là một trong những lợi thế cạnh tranh về giá cho các sản phẩm xuất khẩu, điều này có ý nghĩa đặc biệt đối với các DNNVV tham gia xuất khẩu.
* Thuế giá trị giá tăng
Thuế giá trị giá tăng là loại thế gián thu tính trên khoản giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ phát sinh ở từng khâu từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng. Theo khái niệm này, thuế giá trị giá tăng là yếu tố cấu thành giá bản sản phẩm hàng hoá, dịch vụ.
Ở thuế GTGT, chỉ có người bán hàng (hoặc dịch vụ) lần đầu phải nộp thuế GTGT trên toàn bộ doanh thu bán hàng (hoặc cung ứng dịch vụ). Còn người bán hàng (hoặc dịch vụ) ở các khâu tiếp theo đối với hàng hoá (hoặc dịch vụ) đó chỉ phải nộp thuế trên phần giá trị tăng thêm. Thuế GTGT là thuế duy nhất thu theo phân đoạn nhỏ trong quá trình sản xuất, lưu thông hàng hoá (hoặc dịch vụ) từ khâu đầu tiên đến người tiêu dùng khi khép kín một chu trình kinh tế. Do đó, ưu điểm của thuế GTGT là tránh trường hợp thuế đánh trùng lên thuế như trường hợp thuế doanh thu. Điều này có ý nghĩa quan trọng, nó sẽ tạo điều kiện khuyến khích hoạt động xuất khẩu, thúc đẩy sản xuất kinh doanh, kích thích cạnh tranh, bình đẳng hoá, không phân biệt doanh nghiệp ở khâu đầu, khâu giữa hay khâu cuối của quá trình sản xuất kinh doanh. Phạm vi áp dụng của thuế GTGT rất lớn, bao quát tất cả hàng
hóa và dịch vụ, do đó việc áp dụng thuế GTGT là rất cần thiết và phù hợp với cơ chế thị trường, đưa kinh tế tăng trưởng nhanh chóng và ổn định.
Đối với hàng hoá xuất khẩu, thuế GTGT làm tăng giá nguyên liệu đầu vào do đó làm tăng giá hàng hoá xuất khẩu. Xuất phát từ thực tế đó, những ưu đãi về thuế GTGT sẽ phần nào giảm bớt gánh nặng về chi phí và rủi ro cho doanh nghiệp xuất khẩu. Việc áp dụng các mức thuế suất thuế GTGT tạo điều kiện thuận lợi cho công tác hỗ trợ đối với các mặt hàng được khuyến khích xuất khẩu. Những doanh nghiệp khi tham gia sản xuất hàng xuất khẩu cũng có thể chia sẻ lợi nhuận với các doanh nghiệp xuất khẩu thông qua quy định hoàn thuế GTGT, qua đó các doanh nghiệp xuất khẩu sẵn sàng mua hàng hoá với số lượng lớn hoặc với giá cao hơn mà không sợ bị lỗ về giá.
* Thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB)
Thuế tiêu thụ đặc biệt là một loại thuế gián thu đánh vào một số hàng hoá, dịch vụ chưa thật cần thiết đối với nhu cầu thiết yếu của nhân dân, không khuyến khích sản xuất, tiêu dùng hoặc cần tiết kiệm, hướng dẫn tiêu dùng một cách hợp lý. Đặc điểm của thuế TTĐB là chỉ thu đối với một số hàng hoá, dịch vụ và chỉ thu một lần ở khâu sản xuất hay khi nhập khẩu, thuế suất thường cao hơn các loại thuế khác vì để điều tiết thu nhập, hướng dẫn tiêu dùng và bảo vệ hàng nội địa, do đó nhà sản xuất, nhà nhập khẩu cũng như người tiêu dùng phải cân nhắc khi đầu tư hay nhập khẩu hàng hóa chịu thuế TTĐB.
Một số ưu đãi về thuế TTĐB như giảm thuế TTĐB, khấu trừ thuế, miễn thuế TTĐB đối với một số nguyên liệu đầu vào sản xuất hàng xuất khẩu đã phần nào góp phần thúc đẩy hoạt động xuất khẩu, nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng xuất khẩu cho doanh nghiệp. Hàng hoá do các cơ sở sản xuất, gia công xuất khẩu, hàng hoá bán, gia công cho khu chế xuất, hàng mang ra nước ngoài dự hội chợ, triển lãm, hàng hoá do cơ sở sản xuất bán hoặc uỷ thác cho cơ sở sản xuất xuất khẩu để xuất khẩu theo hợp đồng kinh tế, hàng tạm nhập để tái xuất trong thời gian chưa phải nộp thuế nhập khẩu không phải nộp thuế TTĐB. Hàng tạm nhập khẩu đã nộp thuế TTĐB khi tái xuất khẩu được hoàn thuế TTĐB ứng với số hàng tái xuất khẩu. Thuế
TTĐB đối với số nguyên vật liệu để sản xuất gia công hàng xuất khẩu sẽ được hoàn lại khi xuất khẩu thành phẩm.
* Thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN)
Thuế TNDN là loại thuế trực thu đánh vào thu nhập của các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ có thu nhập chịu thuế. Thuế TNDN được coi là khoản đóng góp tích cực của doanh nghiệp đối với ngân sách Nhà nước để tái phân phối thu nhập, đảm bảo công bằng xã hội. Đồng thời, thuế TNDN còn là công cụ quan trọng để góp phần khuyến khích, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển theo hướng kế hoạch, chiến lược, phát triển toàn diện của đất nước. Thuế TNDN thực hiện chức năng điều tiết các hoạt động kinh tế xã hội trong từng thời kì phát triển kinh tế nhất định. Việc quy định thuế TNDN hợp lý tạo điều kiện và môi trường kinh doanh ổn định, hỗ trợ kịp thời các doanh nghiệp, đặc biệt là những ưu đãi đối với các DNNVV mới thành lập. Việc miễn, giảm thuế TNDN cho các doanh nghiệp mới thành lập đã khuyến khích các nhà đầu tư bỏ vốn thành lập doanh nghiệp, tham gia sản xuất, kinh doanh hàng xuất khẩu cũng như giảm bớt phần nào gánh nặng tài chính cho các DNNVV trong những thời điểm khó khăn.
1.2.2.2. Các chính sách hỗ trợ vốn sản xuất hàng xuất khẩu
a) Các chính sách về đầu tư
* Quỹ đầu tư mạo hiểm
Quỹ đầu tư mạo hiểm là quỹ mà nguồn vốn tài chính cung cấp cho các công ty tư nhân dưới hình thức vốn cổ phần hoặc các khoản đầu tư gần giống như vốn cổ phần có thời hạn trung bình (3-5 năm). Số cổ phần dành được trong công ty nhận vốn đầu tư có thể là thiểu số hoặc lên đến đa số. Mục tiêu đầu tư là tìm kiếm khoản thu nhập vốn cao hơn mức trung bình. Khoản thu này trở thành hiện thực sau khi khoản đầu tư này được bán cho một nhà kinh doanh chứng khoán hoặc bán ra công chúng. Bên cạnh việc cung cấp vốn, các chuyên gia quản lý vốn mạo hiểm còn tư vấn, hướng dẫn các công ty nhận vốn đầu tư bước sang giai đoạn tăng trưởng tiếp theo và chuẩn bị sẵn sàng để công ty được chuyển giao cho cổ đông khác. Những tư vấn này là một đặc điểm quan trọng và đặc thù của vốn mạo hiểm. Đặc biệt, các nhà
đầu tư có một vị trí trong hội đồng quản trị của công ty nhận vốn đầu tư, qua đó tác động tới sự phát triển của công ty nhận vốn đầu tư.
Tóm lại, vốn mạo hiểm là phần đầu tư vào cổ phần mang tính kiên nhẫn và rủi ro cao trong các doanh nghiệp mới ra đời, mang tính đổi mới cao hoặc những doanh nghiệp có tiềm năng tăng trưởng nhanh. Yếu tố then chốt của quá trình đầu tư mạo hiểm là các nhà đầu tư tư nhân.
Đầu tư mạo hiểm là cầu nối lưu thông vốn giữa nhà đầu tư và doanh nghiệp, đặc biệt là các DNNVV. Khi doanh nghiệp cần vốn trong khi lại không có tài sản thế chấp để vay ngân hàng thì những nguồn vốn ngoài ngân hàng như quỹ đầu tư mạo hiểm là vô cùng quan trọng. Mặt khác, bỏ vốn ra, các nhà đầu tư lại được quyền hỗ trợ điều hành công ty, do đó quỹ đầu tư cùng với doanh nghiệp cùng nhau chia sẻ thành công cũng như rủi ro.
Thay vì cho vay, các nhà đầu tư mạo hiểm cấp vốn để giành được quyền sở hữu một lượng cổ phần nhất định trong doanh nghiệp mà họ đầu tư tài chính với hy vọng khoản đầu tư vào cổ phần thành công sẽ bù đắp rủi ro, thất bại từ các khoản đầu tư khác và hơn nữa có thể thu lợi nhuận đầu tư. Bằng việc cung cấp vốn cổ phần dài hạn cho DNNVV không niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán, các quỹ đầu tư vốn mạo hiểm được thành lập nhằm giúp doanh nghiệp mở rộng sản xuất, tham gia tích cực vào hoạt động xuất khẩu. Không những thế, quỹ mạo hiểm qua quá trình đầu tư, hợp tác còn để lại những bài học, những kinh nghiệm, bí quyết, kỹ năng quản lý, tư tưởng kinh doanh phát triển, giúp các doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh của mình trên trường quốc tế. Có thể nói đây là một kênh dẫn vốn tuy mới nhưng lại rất hiệu quả và có tác dụng tích cực và nhanh chóng đối với các DNNVV, giúp các doanh nghiệp này nâng cao khả năng tiếp cận tín dụng, tạo thêm cơ hội phát triển và mở rộng xuất khẩu.
* Quỹ hỗ trợ phát triển
Quỹ hỗ trợ phát triển là một tổ chức tài chính được thành lập với chức năng huy động vốn trung và dài hạn, tiếp nhận và quản lý các nguồn vốn của Nhà nước dành cho tín dụng đầu tư phát triển (bao gồm vốn trong và ngoài nước) để thực hiện chính sách hỗ trợ phát triển của Nhà nước, đặc biệt là mục tiêu xuất khẩu. Các hoạt
động chính của quỹ hỗ trợ phát triển là cho vay trung và dài hạn, cho vay theo hiệp định của chính phủ, hỗ trợ lãi suất sau đầu tư, bảo lãnh tín dụng đầu tư, cho vay lại các dự án đầu tư sử dụng vốn ODA, tín dụng ngắn hạn hỗ trợ xuất khẩu, nhận cấp phát và cho vay uỷ thác…
Một trong những chức năng quan trọng của quỹ hỗ trợ phát triển là trợ cấp, hỗ trợ thúc đẩy xuất khẩu, đây là một ưu đãi về mặt tài chính mà Nhà nước dành cho nhà xuất khẩu khi họ đẩy mạnh xuất khẩu. Trợ cấp được thực hiện dưới các hình thức trực tiếp và gián tiếp, nhằm mục đích khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh xuất khẩu, tìm kiếm và mở rộng thị trường và tăng sức cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu.
Để phù hợp với đòi hỏi của quá trình hội nhập kinh tế toàn cầu hiện nay, các biện pháp hỗ trợ xuất khẩu trực tiếp như tiền thưởng xuất khẩu, trợ giá xuất khẩu, bù lỗ, thưởng xuất khẩu… ngày càng bị thu hẹp thậm chí bị cấm áp dụng hoàn toàn. Ngược lại trợ cấp gián tiếp lại càng được sử dụng phổ biến, mềm dẻo và linh hoạt hơn. Có thể kể ra ở đây các hoạt động như hỗ trợ toàn bộ hoặc một phần lãi suất vốn vay ngân hàng, lãi suất thấp dành cho nhà xuất khẩu trong nước hoặc bạn hàng nước ngoài, hỗ trợ xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường xuất khẩu… Những chính sách ưu đãi này thể hiện chủ trương, đường lối của Nhà nước trong việc thúc đẩy hoạt động xuất khẩu, tạo điều kiện cho DNNVV tiếp cận nguồn vốn ưu đãi, nâng cao năng lực sản xuất, kinh doanh xuất nhập khẩu, góp phần tạo nên lợi thế cạnh tranh của cả quốc gia trên thị trường thế giới. Tuy nhiên, nếu không có định hướng đúng đắn thì trợ cấp thông qua các quỹ hỗ trợ xuất khẩu có thể dẫn đến tình trạng bóp méo thị trường, hạn chế sự chủ động, tích cực của doanh nghiệp cũng như không hiệu quả về mặt tài chính, ngân sách.
Quan điểm của WTO là không khuyến khích nhưng cũng không hoàn toàn cấm. Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng (SCM) đưa ra ba loại trợ cấp Hộp màu đỏ – vàng – xanh hoặc Hiệp định nông sản (AoA) đưa ra Hộp màu Hổ phách – Hộp xanh da trời – Hộp xanh lá cây tương ứng với ba mức độ Cấm - Được phép trợ cấp nhưng có thể bị khiếu kiện - Đươc phép trợ cấp.
b) Các chính sách về tài chính tín dụng