Một số chính sách hỗ trợ tài chính nhằm nâng cao năng lực xuất khẩu cho doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam - 13

vay kịp thời, tập trung vào những đối tượng đang trụ vững trước khó khăn và có khả năng vươn lên. Tuy nhiên đối với những doanh nghiệp không có khả năng hoạt động cũng nên giải quyết theo hướng giải thể, phá sản để ngân hàng bằng cách rút vốn về. Riêng đối với tái cơ cấu thì có thể sáp nhập hoặc bỏ hay chuyển hướng mặt hàng sản xuất kinh doanh. Chẳng hạn, một ngân hàng trước đây cho vay dài hạn thì nay tập trung cho vay ngắn hạn, hoặc một khoản vay trước đây làm ăn tốt nhưng nay gặp rủi ro thì chuyển sang cơ cấu nợ khác. Thậm chí, nếu có nhu cầu mua bán, chuyển nhượng nợ thì cũng nên giải quyết.

- Đẩy mạnh công tác định hướng, kiểm tra, giám sát việc sử dụng vốn đúng mục đích, đúng phương pháp và đạt hiệu quả. Cần có cơ chế đối thoại giữa lãnh đạo địa phương, lãnh đạo trung uơng với doanh nghiệp thường xuyên, phải có các cuộc tiếp xúc hàng tháng, hàng quý. Có như vậy, những vướng mắc về thủ tục hành chính, cơ chế đầu tư mới được tháo gỡ kịp thời, không để lỡ những cơ hội quý báu cho doanh nghiệp hoạt động. Càng trong khó khăn thì việc gặp gỡ càng cần thiết để giải quyết những điểm nóng về khó khăn cho doanh nghiệp. Ngược lại, qua tiếp xúc, đối thoại, cơ quan quản lý có những nhận thức cụ thể và chính xác về doanh nghiệp hơn, từ đó có sự kiểm tra, theo dõi sát tình hình hoạt động cũng như những vướng mắc của doanh nghiệp để đề ra biện pháp quản lý cũng như những chính sách, biện pháp giúp đỡ kịp thời.

Việc ban hành các chính sách hỗ trợ đúng lúc, kịp thời, đúng nơi, đúng chỗ đã khó, nhưng việc đưa các chính sách vào thực hiện một cách có hiệu quả, đúng với chủ trương từ trung ương đến địa phương một các thống nhất và thông suốt là một bài toán nan giải, cần có sự phối hợp của các cơ quan chức năng, các bộ ban ngành, đoàn thể, các chính quyền địa phương tới từng doanh nghiệp. Mỗi một chính sách, một văn bản được ban hành phải được đưa đến cơ sở, các cơ quan ban ngành có liên quan, hướng dẫn và giám sát thực hiện một cách cụ thể và nghiêm túc, có như vậy, chủ trương mới đến được với nhân dân và phát huy hiệu quả đích thực như mong muốn.

Trong một tương lai gần, DNNVV sẽ là nòng cốt của nền kinh tế với những bước vươn lên và phát triển mạnh mẽ. Chính vì thế, Nhà nước cần chia sẻ nguồn

đầu tư cho kinh tế Nhà nước với DNNVV, đưa các chương trình trợ giúp đến được với DNNVV, triển khai một cách đồng bộ các biện pháp hỗ trợ, tập trung vào khâu bồi dưỡng đào tạo. Tăng cường hoạt động của Quỹ Bảo lãnh tín dụng, hỗ trợ, tư vấn và chuyển giao công nghệ, cung cấp thông tin thị trường, xúc tiến thương mại và xây dựng thương hiệu. Việc giải cứu thị trường, kích cầu nền kinh tế là biện pháp mang tầm vĩ mô, nhưng nếu nó không xuất phát từ bản thân từng doanh nghiệp, từng ngành, từng địa phương thì nó không thể vực dậy tổng thể cả một nền kinh tế. Một thành viên, một bộ phận nào còn yếu kém, còn tách rời tổng thể thì không thể có một cơ thể hoàn toàn khỏe mạnh được.

3.3.2. Kiến nghị đối với các ngân hàng thương mại

Thời gian gần đây, cụm từ DNNVV được nhắc đến rất nhiều, trở nên quen thuộc hơn, điều đó thể hiện sự quan tâm, chú trọng và nhận thức đúng vai trò, chức năng và nhiệm vụ của thành phần kinh tế này của Đảng và Chính phủ. Doanh nghiệp là nơi cung cấp đầu vào và đầu ra cho ngân hàng. Khi doanh nghiệp mở tài khoản, ngân hàng có thể sử dụng nguồn tiền nhàn rỗi của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có nhu cầu sử dụng nhiều dịch vụ ngân hàng, do đó đây chính là đầu ra cho ngân hàng. Ngược lại, ngân hàng không chỉ là nói cung cấp tín dụng mà còn giúp đưa ra các giải pháp tài chính cho doanh nghiệp. Mối quan hệ giữa hai đối tượng này là tương hỗ và đồng thuận. Vì vậy, ngân hàng muốn phát triển lâu dài và bền vững thì không thể thiếu doanh nghiệp. Ngân hàng và doanh nghiệp là đối tác luôn song hành cùng nhau.

Trong gói giải pháp hỗ trợ tài chính cho DNNVV thì ngân hàng thương mại đóng vai trò trung gian, là địa chỉ tin cậy mà thông qua đó, Chính phủ sẽ ban hành và triển khai các giải pháp tài chính nhằm cứu trợ, kích cầu nền kinh tế, thúc đẩy xuất khẩu, đảm bảo an sinh xã hội và cải thiện. Ngân hàng thương mại vừa tiến hành kinh doanh, thu lợi nhưng đồng thời cũng gánh trọng trách thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng và Chính phủ thông qua những biện pháp tài chính kích thích kinh tế như hỗ trợ lãi suất, vay ưu đãi, bảo lãnh tín dụng, chính sách tỷ giá hối đoái... Ngân hàng thương mại trở thành một mắt xích quan trọng trong hệ thống tài chính, trong dây chuyền Chính phủ – ngân hàng – doanh nghiệp.

- Thứ nhất, đẩy mạnh việc thành lập và vận hành quỹ bảo lãnh tín dụng vay vốn, tín dụng hỗ trợ xuất khẩu, giúp DNNVV có thể vay vốn khi gặp khó khăn về tài sản thế chấp. Quỹ bảo lãnh tín dụng có thể bảo lãnh tín dụng cho các khoản vay trung và dài hạn với lãi suất ưu đãi đối với các dự án kinh doanh có hiệu quả. Tuy nhiên, để quỹ này hoạt động tốt cần có các quy định rõ ràng về trách nhiệm của quỹ với cơ quan tín dụng và doanh nghiệp cũng như làm rõ cơ chế quản lý, điều hành quỹ để tránh tình trạng nảy sinh một loạt khâu trung gian giữa DNNVV và Ngân hàng trong quá trình thực hiện các giao dịch kinh doanh.

- Thứ hai, ngân hàng điều chỉnh chính sách thế chấp đối với các khoản vay, tín dụng hỗ trợ xuất khẩu cho các DNNVV. Hiện nay có tất nhiều DNNVV nói chung và DNNVV hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu nói riêng, không thể vay vốn ngân hàng vì không có tài sản thế chấp. Do đó, các ngân hàng đã áp dụng cho doanh nghiệp dùng tài sản được hình thành từ các khoản vay, hoặc dùng hàng hóa xuất khẩu làm tài sản thế chấp, tuy nhiên nhiều doanh nghiệp vẫn không đáp ứng được yêu cầu của ngân hàng về tài sản thế chấp. Trong những trường hợp nhất định, ngân hàng và giá trị của các dự án kinh doanh tốt để cho vay cùng với những doanh nghiệp giám sát việc thực hiện sản xuất, kinh doanh và hợp đồng xuất khẩu đã kí kết để giảm thiểu rủi ro cho các khoản tín dụng, đồng thời doanh nghiệp vẫn có vốn để đầu tư, sản xuất, thực hiện hợp đồng với đối tác nước ngoài. Trong trường hợp này, ngân hàng coi bản kế hoạch kinh doanh khả thi đó là tài sản thế chấp, thay thế cho các loại tài sản khác.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 114 trang tài liệu này.

Các ngân hàng thương mại mở rộng cung cấp tín dụng hoặc góp vốn vào các DNNVV cùng hợp tác kinh doanh bởi luôn một thực tế là các DNNVV mà đặc biệt là các doanh nghiệp siêu nhỏ còn hạn chế trong việc tiếp cận tín dụng. Khi đó, các ngân hàng sẽ phát huy một cách tốt nhất vai trò tư vấn cho doanh nghiệp, đồng thời theo dõi giám sát sử dụng vốn của doanh nghiệp. Các DNNVV khi được ngân hàng thương mại góp vốn cũng sẽ gặp thuận lợi và dễ dàng được ngân hàng cho vay khi thiếu vốn hoặc ngân hàng bảo lãnh cho vay vốn của tổ chức tín dụng khác.

Các ngân hàng đảm bảo các biện pháp hỗ trợ tài chính được áp dụng một cách bình đẳng, các DNNVV khu vực tư nhân được áp dụng không phân biệt đối xử với

Một số chính sách hỗ trợ tài chính nhằm nâng cao năng lực xuất khẩu cho doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam - 13

các loại hình doanh nghiệp trong vay vốn ngân hàng. Trong quá trình đưa ra và thực hiện các quy định để đảm bảo sự an toàn của đồng vốn, không nên đồng nhất ràng buộc chặt chẽ việc chấp hành đúng quy định, nguyên tắc bởi thái độ cửa quyền phiền toái đối với khách hàng. Để giúp các DNNVV khắc phục khó khăn về vốn để sản xuất, xuất khẩu đồng thời đảm bảo an toàn vốn cho ngân hàng, các ngân hàng cần nắm bắt thông tin của khách hàng từ nhiều nguồn khác nhau. Bên cạnh đó các ngân hàng cũng cần minh bạch hóa thông tin, công khai các chương trình ưu đãi, các sản phẩm tín dụng mới tới tất cả các khách hàng. Qua đó có thể tư vấn cho các DNNVV các thức xây dựng và thực hiện các kế hoạch kinh doanh, xuất khẩu khả thi, quản lý tốt đồng vốn, tạo uy tín lớn đối với khách hàng nước ngoài, đảm bảo tránh được những rủi ro có thể nảy sinh trong hoạt động xuất khẩu. Lúc đó, ngân hàng thực sự trở thành người bạn đồng hành cùng chia sẻ khó khăn, rủi ro trong kinh doanh xuất khẩu của DNNVV, tránh tình trạng ngân hàng không giải ngân được vốn, trong khi các DNNVV lại thiếu vốn để đầu tư sản xuất, đẩy mạnh xuất khẩu như thời gian qua.

3.3.3. Kiến nghị đối với doanh nghiệp

Doanh nghiệp là đối tượng trợ giúp, ưu tiên hàng đầu, là trung tâm của gói kích cầu nền kinh tế mà Nhà nước đang hướng tới trong thời điểm hiện nay. Tuy nhiên, bản thân doanh nghiệp cũng cần nhận thức rõ ràng khó khăn của mình, đồng thời phát huy tối đa thế mạnh, năng lực của mình, khắc phục khó khăn, tự chủ, sáng tạo, chủ động tiếp cận các biện pháp trợ giúp của Chính phủ sao cho đúng mục đích, kịp thời....

- Thứ nhất, các DNNVV cần chủ động, tích cực tiếp cận và khai thác tốt cơ chế chính sách hỗ trợ tài chính của Chính phủ. DNNVV không đủ điều kiện để tính toán và cân nhắc mức độ rủi ro, tổn thất như các doanh nghiệp lớn, đôi khi cũng chưa đủ khả năng để sử dụng các công cụ phái sinh như Forwards, future, options, swaps để hạn chế và phòng ngừa rủi ro do chi phí thực hiện rất cao, thậm chí có khi còn cao hơn cả tổn thất nếu rủi ro xảy ra.

Đối với rủi ro lãi suất, giải pháp trước hết là doanh nghiệp cần tìm và tận dụng những khoản vay dài hạn với lãi suất ưu đãi qua Ngân hàng Phát triển Việt Nam, Ngân hàng Chính sách xã hội, các quỹ đầu tư do Nhà nước, địa phương thành

lập hay các chương trình mục tiêu của Nhà nước... Những nguồn vay đó có lãi suất ổn định, thấp do đó có thể phòng ngừa và hạn chế được rủi ro lãi suất. Ngoài ra, doanh nghiệp không nên quá phụ thuộc vào vốn vay ưu đãi hỗ trợ lãi suất mà cần chủ động tìm kiếm những công cụ hỗ trợ khác như bảo lãnh tín dụng, quỹ đầu tư mạo hiểm, cho vay thuê tài chính hay các công cụ tuyên truyền sao cho có hiệu quả hơn. Bảo lãnh tín dụng là một kênh hỗ trợ quan trọng cho doanh nghiệp vay vốn, nhất là doanh nghiệp khởi sự, thiếu tài sản, hay thuê mua tài chính với ưu điểm không cần ký quỹ đảm bảo thế chấp, có thể tài trợ đến 100% vốn đầu tư, lãi suất thỏa thuận giữa hai bên và bên đi thuê không chịu rủi ro lãi suất của thị trường...

- Thứ hai, DNNVV cần phải xem công tác quản trị là xương sống để phát triển doanh nghiệp. DNNVV hiện nay phải đối mặt với rất nhiều thách thức về môi trường kinh doanh, đồng thời gặp nhiều khó khăn về tiếp cận nguồn lực cần thiết như sử dụng đất, vay vốn trung và dài hạn, công nghệ và đào tạo... do đó, bản thân doanh nghiệp quản trị tốt, chiến lược phát triển đúng đắn, nguồn lực tận dụng và phát huy tối đa hiệu quả thì mới có khả năng phát triển và tăng trưởng được. Quản trị là đặt ra các mục tiêu, định hướng, chiến lược hành động cho toàn doanh nghiệp. Các nhà lãnh đạo DNNVV hiện nay còn ít quan tâm đến công tác quản trị doanh nghiệp, quản trị công ty mà tập trung vào các vấn đề quản lý nên không đưa ra được cái nhìn tổng thể về chiến lược phát triển doanh nghiệp, thậm chí còn có cái nhìn sai lầm. ở các doanh nghiệp nhỏ thường kết hợp công việc quản trị – quản lý nhằm tiết kiệm chi phí. Khi đó, người quản trị cũng phải lo các công việc quản lý hàng ngày, tình trạng này dễ dẫn đến sự nhầm lẫn hoặc thiếu tập trung trong công việc nếu như nhà quản trị không có ý thức rõ ràng về trách nhiệm và sự tách bạch trong tính chất công việc. Có tới 85% doanh nghiệp Việt Nam không có chiến lược hoạt động quá hai năm, hầu hết họ chỉ xác định sản phẩm hoặc dịch vụ của mình là gì, còn doanh nghiệp đang đứng ở đâu, sản phẩm ở vị trí nào trên thị trường, doanh nghiệp của mình sẽ như thế nào trong tương lai thì doanh nghiệp quan tâm chưa nhiều.

Như vậy, muốn doanh nghiệp quản trị thật sự hiệu quả, tốt nhất nên tách bạch hai vị trí quản lý và quản trị riêng biệt. Tuy nhiên, doanh nghiệp sẽ phải trả chi phí lớn hơn cho cả hai vị trí này, chưa kể việc điều chỉnh sao cho hai vị trí phối hợp tốt được với nhau cũng không hề đơn giản. Do đó việc tách biệt này chỉ có thể áp

dụng ở những công ty lớn, quy mô tầm cỡ, nhiều bộ phận, nhiều hoạt động mà người lãnh đạo không thể nắm bắt hết mọi hoạt động quản lý hàng ngày. Còn ở các DNNVV của Việt Nam, thì việc kết hợp quản lý và quản trị là phổ biến và phù hợp nhưng phải hiểu và thực hiện tốt cả hai việc, nhất là công tác quản trị doanh nghiệp thì mới đưa doanh nghiệp phát triển thành công. Trong nền kinh tế thị trường xu hướng hội nhập hiện nay, mối quan tâm hàng đầu của các nhà lãnh đạo doanh nghiệp là duy trì và nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm, duy trì và mở rộng thị phần, hướng tới xuất khẩu. Để thực hiện việc này thành công, thì người điều hành doanh nghiệp phải giỏi về quản trị, xây dựng chiến lược phát triển doanh nghiệp, nhạy bén với tín hiệu thị trường, kiểm soát được rủi ro, xác định được mô hình tổ chức, quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có mục tiêu chiến lược rõ ràng, như vậy kết hợp với các biện pháp hỗ trợ tài chính của Chính phủ, đó là những điều kiện tiên quyết và vững chắc để DNNVV có nhiều cơ hội phát triển, nâng cao năng lực cạnh tranh và thúc đẩy xuất khẩu, theo đúng định hướng và mục đích của Đảng và Nhà nước đã đề ra.

Doanh nghiệp phải thường xuyên kiểm tra các khoản nợ, duy trì khả năng thanh toán đúng hạn, đồng thời xây dựng cơ cấu tài chính hợp lý, cân đối về tỷ lệ vốn vay/ vốn chủ sở hữu để đảm bảo khả năng trả nợ. Trước khi vay, doanh nghiệp cần nghiên cứu kỹ khả năng trả nợ, hoạch định nguồn trả, thanh toán trả và lãi suất hợp lý, tránh tình trạng vay mượn bằng mọi giá. Đồng thời, khi có điều kiện Doanh nghiệp phải thanh toán sớm các khoản nợ để giảm chi phí, đồng thời có điều kiện tốt để quản lý các khoản nợ còn lại, từ đó giảm rủi ro.

Cuối cùng doanh nghiệp cần phải xác định cho mình quy mô hoạt động phù hợp với mô hình và khả năng quản trị của doanh nghiệp, từ đó có chiến lược và kế hoạch quản trị doanh nghiệp hợp lý.

- Thứ ba, doanh nghiệp cần tiến tới sử dụng nhiều hơn các dịch vụ ngân hàng, nhất là các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Doanh nghiệp cần hợp tác với ngân hàng ngay từ giai đoạn đầu chứ không chỉ khi cần vốn mới tìm đến ngân hàng. Một doanh nghiệp không biết tận dụng các dịch vụ ngân hàng thì đó là một doanh nghiệp chưa thực sự mạnh. Sự phát triển của ngành ngân hàng trong thời gian gần

đây mang lại nhiều tiện ích cho các khách hàng doanh nghiệp. Do vậy, doanh nghiệp cần hiểu và sử dụng chúng để phục vụ tối đa cho hoạt động của mình.

- Thứ tư, doanh nghiệp cần đánh giá đúng đắn các vấn đề tài chính. DNNVV Việt Nam thường đầu tư lớn về sản xuất, marketing, bán hàng... mà lại lơ là vấn đề tài chính hoặc quy đổi trách nhiệm cho bộ phận kế toán. Họ cần phải nhận thức đầy đủ và chính xác thế nào là cơ cấu nguồn vốn, sự lưu chuyển của dòng tiền, hiệu quả sử dụng dòng vốn... Đây là những vấn đề cơ bản và quan trọng trong tài chính doanh nghiệp. Ngoài ra, doanh nghiệp còn hay mắc các vấn đế về nhân sự, thiếu giám đốc tài chính hoặc đánh đồng nhiệm vụ của kế toán trưởng với giám đốc tài chính. Bên cạnh đó, hệ thống kế toán thiếu minh bạch ảnh hưởng lớn đến đánh giá tài chính. Một nhược điểm cơ bản của khối DNNVV là sự phiêu lưu mạo hiểm trong đầu tư, vay nợ nhiều nhưng lại thiếu các giải pháp tài chính đúng đắn. Do vậy, một kiến nghị nữa đối với bản thân mỗi doanh nghiệp đó là phải đánh giá đúng các vấn đề tài chính, từ đó đưa ra những giải pháp tài chính hợp lý, kịp thời. Như vậy, bản thân doanh nghiệp mới hoạt động đúng hướng, có hiệu quả và các biện pháp hỗ trợ tài chính của Chính phủ mới phát huy tác dụng, đến được đúng nơi, đúng lúc và đúng cách, mọi nguồn lực mới được tận dụng một cách tối đa.

- Thứ năm, đó là bản thân mỗi DNNVV phải phát huy tinh thần độc lập, tự chủ, tránh tư tưỏng trông chờ, thụ động, phụ thuộc vào sự ưu đãi, hỗ trợ hay sự trợ cấp từ bên ngoài. Tự thân doanh nghiệp phải có năng lực, phải có chiến lược phát triển hợp lý, đúng đắn, có những điều kiện nguồn lực cần thiết, có chế độ quản trị chặt chẽ, đúng hướng... kết hợp với những trợ giúp, ưu đãi từ Nhà nước, các tổ chức, đoàn thể thì sự phát triển mới bền vững và hiệu quả được. Trong quá trình hoạt động, mỗi doanh nghiệp cần xác định cho mình phương châm hoạt động đó là tôn trọng trung thực, minh bạch hoá thông tin, đặc biệt là ở chế độ kế toán, sổ sách, kê khai thuế cũng như tình trạng hoạt động thực sự của doanh nghiệp... Có như vậy sự vận hành của doanh nghiệp mới lành mạnh, tăng trưởng mới bền vững, đi đúng đường lối chủ trương của Đảng và Nhà nước, qua đó Chính phủ và các tổ chức có liên quan mới đưa ra những chính sách phù hợp, đúng đắn và kịp thời, tác động ngược trở lại đối với doanh nghiệp. Nhất là trong giai đoạn kinh tế khó khăn như

hiện nay, bất cứ một động thái, một chủ trương, chính sách của Nhà nước cũng có ảnh hưởng nhanh chóng đến thị trường, đến hoạt động của các doanh nghiệp.

- Thứ sáu, các DNNVV cần liên kết, hợp tác với nhau để tạo nên sức mạnh chống rủi ro, quan hệ hỗ trợ nhau vay vốn nhàn rỗi, đối phó với rủi ro tỷ giá hay biến động giá cả... Các hiệp hội, các câu lạc bộ doanh nghiệp có vai trò hết sức quan trọng trong việc hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận các chính sách, tư vấn và trợ giúp về mặt pháp lý, liên kết nhau lại để sử dụng các công cụ phái sinh nhằm phòng ngừa rủi ro.

Xem tất cả 114 trang.

Ngày đăng: 06/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí