Một số chính sách hỗ trợ tài chính nhằm nâng cao năng lực xuất khẩu cho doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam - 12

- Đẩy mạnh thủ tục hải quan là một trong những nhiệm vụ quan trọng của cải cách hành chính trong ngành tài chính. Hồ sơ hải quan vẫn theo mẫu thiết kế chung cho tất cả các loại hàng hóa, chưa có quy định đặc thù cho từng loại hàng hóa, các chỉ tiêu kê khai trong tờ khai hàng xuất khẩu, nhập khẩu vẫn còn nhiều. Bên cạnh đó, phải cải thiện trình độ và thái độ làm việc của cán bộ hải quan, minh bạch hóa quy trình, thủ tục, lành mạnh và trong sạch hóa đội ngũ cán bộ, kiên quyết phòng chống tiêu cực, có như vậy hệ thống hải quan mới thực hiện đúng nhiệm vụ của mình và thúc đẩy xuất nhập khẩu hàng hóa thông suốt, góp phần hỗ trợ doanh nghiệp, đặc biệt là các DNNVV.

Cơ quan hải quan kiến nghị rà soát biểu thuế nhập khẩu ưu đãi hiện hành nhằm hạn chế gian lận thương mại trong phân loại và áp mức thuế suất. Ngoài ra, cơ quan hải quan còn đề xuất sửa đổi thủ tục hải quan nhằm mục đích thuận lợi cho xuất nhập khẩu, nâng cao trách nhiệm của cơ quan, công chức hải quan

* Thuế giá trị gia tăng

- Áp dụng thuế suất 0% và hoàn thuế GTGT nhập khẩu nguyên liệu đầu vào với cả đối tượng là hàng hóa và dịch vụ xuất khẩu tại chỗ. Bên cạnh đó cần đẩy nhanh việc hoàn thuế GTGT đối với hàng xuất khẩu của các DNNVV vì các doanh nghiệp luôn trong tình trạng thiếu vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu. Tuy nhiên thực hiện giải pháp này sẽ khó khăn trong quản lý, Chính phủ cần sớm có quy định, hướng dẫn cụ thể để có cơ sở áp dụng thống nhất, minh bạch, công bằng.

- Phải thống nhất đơn giản hóa các thủ tục, phương pháp tính thuế, hoàn thuế. Theo quy định, việc hoàn thuế GTGT chỉ áp dụng đối với cơ sở kinh doanh nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ trong một số trường hợp, với các nguyên tắc khác nhau tùy theo tính chất hoạt động và theo đối tượng tính thuế. Việc áp dụng các quy định này đã tạo ra sự phức tạp trong chính sách, đôi khi tạo điều kiện lạm dụng trong việc hoàn thuế.

Thuế GTGT áp dụng đồng thời hai phương pháp tính thuế là phương pháp khấu trừ và phương pháp trực tiếp. Việc sử dụng cả hai phương pháp tính thuế GTGT như vậy hầu như luôn gây bất lợi cho các doanh nghiệp nhỏ vì các doanh

nghiệp này không lưu số sách kế toán và không có hóa đơn GTGT (nghĩa là không áp dụng được phương pháp khấu trừ), giảm khả năng thực hiện công việc kinh doanh của họ, tạo lợi thế bất lợi trong cạnh tranh, nhất là về giá cả so với các doanh nghiệp lớn. Việc sử dụng hai phương pháp tính thuế dẫn đến sử dụng đồng thời hai loại hóa đơn (hóa đơn giá trị gia tăng và hóa đơn thường), theo đó, chỉ hàng hóa và dịch vụ mua vào có hóa đơn GTGT mới được dùng làm căn cứ khấu trừ thuế GTGT đầu vào, như vậy, sẽ tạo sự không bình đẳng mà bất lợi thuộc về các đối tượng kinh doanh nhỏ.

3.1.1.2. Các chính sách về đầu tư:

Cần xây dựng và thực hiện chính sách khuyến khích hoạt động xuất khẩu của các Quỹ đầu tư mạo hiểm.

- Hoàn thiện thể chế pháp luật về đầu tư: Ở khu vực Đông Nam Á nói chung và Việt Nam nói riêng, vốn mạo hiểm vẫn còn tương đối mới mẻ, nhưng nhìn chung đã đạt được những thành tựu đáng kể trong việc khuyến khích khu vực tư nhân phát triển. Tuy nhiên, để quỹ mạo hiểm thực sự trở thành công cụ hữu ích trong quá trình huy động vốn đầu tư cho các DNNVV, trong thời gian tới Chính phủ cần phải thiết lập một khung khổ pháp lý, thể chế ổn định cho hoạt động của tổ chức tài chính phi ngân hàng trong nước và quốc tế, xây dựng, hoàn thiện và nâng cao hiệu quả hoạt động của thị trường chứng khoán.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 114 trang tài liệu này.

Một thị trường chứng khoán phát triển đầy đủ và một hệ thống toàn diện sẽ tạo cơ hội cho các DNNVV huy động vốn cổ phần dài hạn thông qua phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng và niêm yết trên thị trường chứng khoán. Điều này sẽ giúp các công ty có đủ khả năng tiếp cận vốn dài hạn cho đầu tư hơn là nguồn vốn sẵn có thông qua tín dụng ngân hàng thông thường, qua đó giúp họ cân bằng nợ và vốn cổ phần.

- Hình thành và phát triển sàn giao dịch riêng cho DNNVV sẽ là công cụ hiệu quả giúp các cá nhân và tổ chức đầu tư cổ phiếu trong và ngoài nước đầu tư vào các DNNVV ở Việt Nam. Việc thúc đẩy loại hình vốn cổ phần trở thành phương thức huy động vốn dài hạn cho DNNVV lớn sẽ giúp giải phóng tín dụng cho các DNNVV nhỏ hơn.

Một số chính sách hỗ trợ tài chính nhằm nâng cao năng lực xuất khẩu cho doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam - 12

Như vậy, cùng với giải pháp hoàn thiện hoạt động của thị trường chứng khoán nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động của quỹ đầu tư mạo hiểm, một môi trường đầu tư được cải thiện và minh bạch hơn cũng sẽ giúp cho Việt Nam trở thành một điểm đến hấp dẫn với dòng đầu tư cổ phần từ nước ngoài vào trong nước. Những dòng đầu tư này sẽ là một yếu tố ngày càng quan trọng đối với phát triển khu vực DNNVV tăng trưởng và hoạt động hiệu quả để có thể cạnh tranh cả trên thị trường quốc tế lẫn thị trường nội địa ít được bảo hộ hơn.

3.1.1.3. Các chính sách tài chính tín dụng

* Tín dụng ngân hàng

- Thứ nhất, cần linh hoạt hơn trong chính sách tín dụng ưu đãi. Diễn biến chính sách từ thắt chặt tiền tệ đến nới lỏng khiến những trở ngại trong tiếp cận vốn của DNNVV cũng thay đổi không ngừng. Lãi suất quá cao cũng như những khó khăn về điều kiện thế chấp và xét duyệt cho vay luôn là rào cản hàng đầu đối với các doanh nghiệp. Các ngân hàng hiện nay quá chú trọng đến mức độ an toàn và tuân thủ cứng nhắc các nguyên tắc nên thủ tục cho vay đã chưa minh bạch nay càng trở nên phức tạp đối với các doanh nghiệp. Thậm chí trong bối cảnh có nhiều rủi ro tiềm ẩn, các ngân hàng càng thẩm định kỹ hơn, xem xét kỹ báo cáo tài chính, báo cáo chu chuyển tiền tệ, lịch sử thanh toán, khả năng tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ, thu nhập tương lai... Trong khi đó các ngân hàng cũng lo ngại do họ chỉ được hoàn trả 80% tiền hỗ trợ lãi suất đến hết năm 2009, 20% còn lại phải chờ thanh tra, nếu có sai phạm trừ luôn 20% vào các khoản thuế phải nộp nên các ngân hàng cũng có phần dè dặt trong các gói cho vay ưu đãi.

- Thứ hai, cần phối hợp cho vay ưu đãi với nhiều biện pháp hỗ trợ khác trong một chỉnh thể đồng bộ và có định hướng rõ ràng. Theo nghiên cứu của Diễn đàn phát triển Việt Nam, gói kích cầu mới chỉ chú trọng đến hỗ trợ sản xuất là chưa đủ, cần có giải pháp hỗ trợ thị trường, nâng cao năng lực cạnh tranh xuất khẩu, kích thích tiêu dùng. Đồng thời với cho vay doanh nghiệp trực tiếp sản xuất cần đẩy mạnh cho vay tiêu dùng, kinh doanh bất động sản hay chứng khoán.

Ngày 23/01/2009, Chính phủ công bố gói kích thích kinh tế lần một với lãi suất hỗ trợ 4% đối với các tổ chức, cá nhân vay vốn ngân hàng trong thời gian tối đa

là 8 tháng, kết thúc vào ngày 31/12/2009. Vốn vay này nhằm giúp doanh nghiệp giảm giá thành sản phẩm, duy trì sản xuất kinh doanh, và tạo công ăn việc làm trong điều kiện nền kinh tế bị tác động bởi khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới.

Gói kích thích kinh tế lần hai được Chính phủ công bố hôm 06/04/2009 nhằm cung cấp bù lãi suất 4% cho doanh nghiệp, song hướng vào các nguồn vốn trung và dài hạn trong khoảng thời gian tối đa 24 tháng. Việc hỗ trợ lãi suất này được thực hiện từ ngày 01/04/ 2009 đến hết ngày 31/12/2011.

Tuy nhiên theo ý kiến của các chuyên gia chỉ nên coi đây là giải pháp tạm thời, nếu lạm dụng sẽ phát sinh tiêu cực, tạo cơ chế xin cho và tâm lý ỷ lại trong doanh nghiệp.

- Thứ ba, cần minh bạch hóa gói kích thích kinh tế cho mọi đối tượng, mọi thành phần cũng như các chủ thể của nền kinh tế sao cho phù hợp với các quy định và cam kết quốc tế. Hỗ trợ lãi suất sẽ đẩy nhiều doanh nghiệp xuất khẩu đứng trước nguy cơ có thể bị áp thuế chống trợ cấp khi hàng được xuất sang các nước khác. Doanh nghiệp được sử dụng khoản vốn này dù là đầu tư hạ tầng, máy móc thiết bị hay sản xuất tiếp hàng xuất khẩu cũng đều được coi là bằng chứng để đối tác nước ngoài kiện lại. Do đó, Nhà nước phải có cơ chế quản lý rõ ràng để chống hiện tượng lạm dụng như ngân hàng và doanh nghiệp bắt tay nhau tạo ra khoản vay ảo với lãi suất hỗ trợ, sau đó lại cho vay kiếm lời hay hiện tượng doanh nghiệp lạm dụng vay nhưng lại không đầu tư theo cam kết mà dùng để trả nợ, đáo hạn rồi gửi lại ngân hàng hưởng lãi. Nhà nước cần minh bạch hóa gói kích cầu, đối với hoạt động tín dụng, giám sát bao giờ cũng là công việc khó khăn vì luôn bất cân xứng về thông tin, người vay thường đưa ra các dự án với những dự định rất khả thi, trong khi người cho vay không có nhiều cơ sở để thẩm định người vay tiền của mình làm gì, hiệu quả ra sao.

- Thứ tư, tìm ra một giải pháp hợp lý để quản lý vấn đề đảo nợ. Một vấn đề bất cập có thể kể đến như một ví dụ tiêu biểu cho sự mâu thuẫn giữa chính sách và thực tế áp dụng đó là vấn đề đảo nợ của DNNVV. Rất nhiều doanh nghiệp còn tồn đọng nợ xấu trong điều kiện hiện tại, không có khả năng thế chấp cho dù là vay với lãi

suất ưu đãi. Xuất khẩu khó khăn chồng chất, sau hai tháng đầu năm 2009, cả nước xuất siêu gần 300 triệu USD, nhưng không tránh khỏi những mối lo ngại hiện hữu. Việc đảo nợ có thể giúp doanh nghiệp trả nợ cũ với lãi suất cao, giảm gánh nặng tài chính và giúp ngân hàng hạn chế nợ xấu, từ đó doanh nghiệp có thể vay mới, ít nhất để có thể duy trì hoạt động. Còn phía ngân hàng có thể tránh được những hậu quả có thể có của nợ xuất nếu doanh nghiệp không hết nợ và vẫn tiếp tục huy động vốn để cho vay mới, dù chưa phải là nhiều nếu xét tổng lượng tín dụng trong nền kinh tế. Tuy nhiên Ngân hàng Nhà nước thực hiện theo quy định cho vay tín dụng thông thường, nếu số lượng doanh nghiệp đảo nợ quá nhiều sẽ khó có thể cân bằng được tài chính.

* Bảo lãnh tín dụng

Quyết định số 60/2009/QĐ-TTg ngày 17/04/2009 đã khắc phục được những vướng mắc đối với DNNVV trong quá trình tiếp cận chính sách bảo lãnh tín dụng. Theo đó, doanh nghiệp có vốn điều lệ tối đa 20 tỷ đồng hoặc sử dụng dưới 1000 lao động đều được Ngân hàng phát triển Việt Nam bảo lãnh tín dụng. Quy định này tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động thuộc ngành dệt may, da giày... có điều kiện được bảo lãnh tín dụng. Tuy nhiên, vẫn còn một số khó khăn cho các doanh nghiệp nhỏ hoặc các hợp tác xã trong việc xây dựng những dự án khả thi để được bảo lãnh tín dụng. Chính vì vậy, cần có một bộ phận tư vấn về dự án tốt cần những yêu cầu gì, hoặc có thể đưa ra những tiêu chí căn bản để doanh nghiệp nắm được khi xây dựng dự án trước khi tìm đến ngân hàng.

Bên cạnh đó, nhiều doanh nghiệp đáp ứng đủ tiêu chuẩn vay vốn bảo lãnh nhưng lúng túng, không nắm chắc chính sách kiến thời gian kéo dài. Đặc biệt khi sổ sách kế toán không đáp ứng đủ điều kiện thì việc giải ngân cũng gặp khó khăn, dẫn đến tình trạng bảo lãnh tín dụng chậm đi vào thực tiễn và phát huy hiệu quả. Do đó, Nhà nước cần tăng cường các biện pháp tuyên truyền, làm cầu nối giữa doanh nghiệp và ngân hàng. Doanh nghiệp sẵn sàng cung cấp các chỉ số tài chính và ngân hàng tin tưởng hơn vào doanh nghiệp. Từ đó, mối quan hệ tín dụng giữa doanh nghiệp và ngân hàng được cải thiện cũng như việc vay vốn thuận lợi và hiệu quả hơn.

* Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu:

- Thứ nhất, tiến tới thành lập công ty bảo hiểm tín dụng xuất khẩu. Bộ Công thương phối hợp với Bộ Tài chính xúc tiến lên kế hoạch thành lập công ty bảo hiểm tín dụng xuất khẩu nhằm tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, trong bối cảnh VND cũng như nhiều đồng tiền mạnh trên thế giới có những diễn biến bất thường.

Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu là một hình thức hỗ trợ hiệu quả cho các doanh nghiệp xuất khẩu, vừa phù hợp với quy định của WTO, vừa đảm bảo giúp các doanh nghiệp yên tâm, phòng ngừa rủi ro. Đây là hình thức phố biến trên thế giới nhưng lại còn khá mới mẻ với Việt Nam. Các DNNVV xuất khẩu của Việt Nam còn chưa nhận thức được hết rủi ro trong giao dịch quốc tế, trong khi các chính sách điều hành tỷ giá hối đoái của hệ thống ngân hàng chưa theo kịp diễn biến thị trường. Công ty bảo hiểm tín dụng xuất khẩu ra đời sẽ thay thế cho các hình thức hỗ trợ xuất khẩu như thưởng thành tích xuất khẩu, thưởng vượt kim ngạch xuất khẩu và các chính sách tín dụng ngắn hạn hỗ trợ xuất khẩu [34].

- Thứ hai, ta cần thiết lập hệ thống chính sách pháp luật nhất quán, phù hợp với quy định thương mại quốc tế đồng thời nâng cao nhận thức của doanh nghiệp về sự cần thiết cũng như tác dụng của bảo hiểm tín dụng xuất khẩu. Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu còn hạn chế là do áp lực chi phí, những cản trở khách quan về giá nguyên liệu đầu vào hay chênh lệch tỷ giá... Ngoài nhận biết về rủi ro pháp lý quốc tế còn hạn chế, nhiều nhà xuất khẩu trong nước thậm chí còn không có khái niệm bảo hiểm xuất khẩu là một loại chi phí nên không đưa vào giá thành. Thiếu thông tin, pháp luật không đồng bộ, dịch vụ kiểm toán chưa đủ tin cậy, sổ sách của nhà xuất khẩu tính minh bạch chưa cao, thiếu công ty thu hồi nợ cũng làm cho các nhà bảo hiểm nản lòng. Chính vì thế, để bảo hiểm tín dụng phát triển ở Việt Nam, phổ biến và phát huy tác dụng tích cực đối với doanh nghiệp xuất nhập khẩu thì bản thân ta phải có hệ thống chính sách nhất quán, phù hợp với quy định quốc tế, đồng thời các doanh nghiệp phải chủ động và tích cực tiếp cận với dịch vụ mới mẻ nhưng cũng rất hiệu quả này.

Tiểu kết:

Tóm lại, về hỗ trợ doanh nghiệp, phát triển DNNVV là một vấn đề mới đối với các cơ quan quản lý nhà nước và chính quyền các cấp. Do vậy khó tránh khỏi những bỡ ngỡ, khó khăn khi triển khai các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Có thể đưa ra một số kiến nghị đối với Nhà nước, cụ thể là với Chính phủ và chính quyền các địa phương như sau:

- Đổi mới sự hỗ trợ của Nhà nước đối với DNNVV theo hướng giảm tính hành chính, mở rộng cơ hội tiếp cận sự hỗ trợ cho các đối tượng này. Đổi mới cơ chế chính sách phát triển doanh nghiệp nói chung và DNNVV nói riêng sao cho nhanh gọn, thuận tiện, kịp thời. Cải cách các thủ tục hành chính liên quan, giảm bớt các phiền hà, tiêu cực, nhũng nhiễu từ một bộ phận cán bộ, công chức có thẩm quyền.

- Nâng cao chất lượng công tác xây dựng, ban hành các chính sách hỗ trợ cho DNNVV thể hiện trong các văn bản quy phạm pháp luật với các tiêu chí bảo đảm tính kịp thời, đồng bộ, tập trung, nhất quán trong một tổng thể thống nhất.

- Tăng cường hiệu quả việc việc thực thi chính sách, đảm bảo sự thống nhất và gắn kết từ trung ương đến địa phương. Tiến hành phân cấp sâu rộng và mạnh mẽ cho các địa phương với cơ chế kiểm tra chặt chẽ nhằm tạo sự bình đẳng trong cơ hội tiếp cận vốn tín dụng, các chính sách ưu đãi của Chính phủ giữa các doanh nghiệp ở nông thôn, miền núi và thành thị, giữa quy mô của doanh nghiệp: vừa – nhỏ – siêu nhỏ; giữa các hình thức sở hữu doanh nghiệp như doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp tư nhân... Có sự hướng dẫn cụ thể và kịp thời cho các địa phương trong việc triển khai các chính sách tài chính hỗ trợ DNNVV thúc đẩy xuất khẩu vì những chính sách này mới, phức tạp, tránh sự lúng túng của các địa phương, bảo đảm quyền lợi cho các DNNVV.

- Nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ công chức thực thi nhiệm vụ quản lý nhà nước trong lĩnh vực này, chủ yếu trên hai phương diện là năng lực chuyên môn và đạo đức công vụ, xóa bỏ thái độ cửa quyền, vụ lợi, sách nhiễu, phiền hà, làm khó cho doanh nghiệp, nhất là công chức các cấp chính quyền địa phương chưa làm hết chức năng, nhiệm vụ được giao.

- Nâng cao tính chính xác trong chính sách, dự báo, thống kê. Đây là cơ sở quan trọng cho việc ban hành các chính sách quản lý vĩ mô cũng như có sự định

hướng quan trọng cho nền kinh tế nói chung, từng DNNVV nói riêng. Rất nhiều cơ quan đưa ra những con số, dự báo nhưng không đầy đủ, thậm chí thiếu tính chính xác, gây hoang mang cho doanh nghiệp, định hướng sai từ chính sách, phản ứng tiêu cực từ thị trường... Ví như cuộc khảo sát 163.673 DNNVV tháng 10/2008, Ngân hàng Nhà nước công bố có 3,8% doanh nghiệp gặp khó khăn, trong đó có 1,42% có khả năng mất vốn. Theo ông Cao Sỹ Kiêm, Chủ tịch Hiệp hội DNNVV Việt Nam đã cho rằng con số đó không chính xác và có phần thiếu trách nhiệm. Một thực tế là lãi suất ngân hàng tăng ở mức 21%/năm, lượng vốn thiếu đi gần một nửa do khống chế tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống tháng 12/2008 ở mức 30% so với hơn 50% thời điểm cuối năm 2007, giá nguyên vật liệu đầu vào tăng, tình hình thế giới và trong nước biến động đã “rung chuyển”, điều đó cho thấy con số 3.8% DNNVV gặp khó khăn là không hợp lý. Ngoài ra, Ngân hàng Nhà nước cho rằng có 73,2% DNNVV hoạt động trung bình cũng là không đúng. Trong điều kiện khủng hoảng kinh tế, suy thoái như hiện nay, có nhiều yếu tố khách quan khó dự đoán chính xác nên càng phải hết sức thận trọng trong dự báo, nhất là những dự báo lạc quan thái quá để tránh những quyết sách vội vàng, thiếu cân nhắc đầy đủ mọi yếu tố kinh tế, chính trị – xã hội. Đây là một yếu tố quan trọng trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế cũng như của quốc gia.

- Nâng cao chất lượng tham mưu, tư vấn, phản biện xã hội đối với điều hành, quản lý vĩ mô, các dự án phát triển kinh tế – xã hội nhằm tránh những quyết định thiếu cân nhắc, không phù hợp với tình hình kinh tế xã hội.

- Mở rộng các kênh thông tin cho các DNNVV: Một chính sách đúng đắn được đưa ra phải được tuyên truyền, phổ biến rộng rãi tới các cơ quan có liên quan, tới từng doanh nghiệp một cách bình đẳng và thống nhất từ trung ương đến địa phương. Muốn làm được việc đó không chỉ dừng lại ở minh bạch hóa thông tin, minh bạch hóa chính sách, cải cách hành chính mà còn phải nâng cao chất lượng cán bộ cơ sở, nhận thức của doanh nghiệp cũng như sự phối hợp đồng bộ của Nhà nước, địa phương, các ngân hàng và doanh nghiệp.

- Linh hoạt và hợp lý hơn trong các quy định cụ thể. Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước là phải chỉ đạo điều hành theo hướng phân loại tín dụng cụ thể, cho

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 06/05/2022