khai hoang lập đồn điền chủ yếu là phạm nhân, tù binh và một số binh lính đóng đồn ở các địa phương. Đến năm 1481, cả nước có 43 sở đồn điền để cấp cho họ hàng nhà vua và quan lại từ tứ phẩm trở lên (gọi là cấp lộc điền). Lực lượng sản xuất trong các đồn điền - trang trại - vừa áp dụng chế độ nô tỳ, vừa chủ yếu là bóc lột trực tiếp bởi phong kiến và phụ thuộc trực tiếp bởi nhà nước vì luật pháp cấm nông dân bỏ làng ra đi để bắt nông dân không ruộng phải cày ruộng, nộp thuế, lao dịch và binh dịch.
Đến đời nhà Nguyễn từ năm 1802 - 1855 triều đình đã ban hành 25 quyết định về khai hoang với hình thức chủ yếu là chiêu mộ dân phiêu tán để khai hoang lập ấp trại hoặc xã. Đồng thời, nhà nước dùng binh lính và tù nhân bị lưu đày để khai hoang, hoặc giao cho tư nhân chiêu mộ dân khai phá đất hoang để lập đồn điền - trang trại - phát canh - thu tô.
Đặc biệt thời kỳ thực dân Pháp đô hộ, họ đã thực hiện chính sách khai thác thuộc địa làm giàu cho chính quốc. Họ thấy ngành nông nghiệp là ngành đấu tư ít vốn mà dễ dàng thu được lợi nhuận cao vì vừa có thể bóc lột được độ phì nhiêu của đất vừa bóc lột được sức lao động làm thuê đến cùng tận. Năm 1888, Toàn quyền Đông dương ra các Nghị định cho địa chủ thực dân được quyền lập các đồn điền, Nghị định còn cho phép địa chủ thực dân được quyền lập các đồn điền rộng lớn mà họ gọi là đất vô chủ. Chỉ sau 2 năm, năm 1890, số đồn điền trại ấp khắp ba miền Bắc - Trung - Nam được họ thành lập đã lên tới 108 cái, với diện tích 10.898 ha, quy mô bình quân 100 ha/ 1 đồn điền. Đến giữa những năm 20, tổng diện tích mà họ chiếm đoạt dưới nhiều thủ đoạn đã lên đến 270.000 ha (trong đó ở Nam kỳ 308.000; ở Trung kỳ 26.000 và ở Bắc kỳ 136.000 ha). Tổng số trang trại (đồn điền) đã lên tới 2.350 cái chuyên trồng cao su, chè, hồ tiêu, dừa, lúa, mía, bông… quy mô vừa, lớn, nhở khác nhau. Có cái ở Bắc kỳ lên đến 8.515ha. Nhưng bình quân chung ước chừng 200 ha/cái [11], [36].
Kết quả lợi nhuận siêu gạch họ vơ vét ngày càng nhiều, họ càng thi nhau phát triển trang trại cả về số lượng và quy mô diện tích đất đai kinh doanh. Tính đến năm 1930, thực dân Pháp đã chiếm đọat 1,2 triệu ha, bằng 1/7 trong tổng diện tích đất canh tác của nước ta lúc bấy giờ để lập trên dưới 4.000 đồn điền - trang trại với quy mô bình quân chừng 300 ha/cái.
Phương thức kinh doanh của các chủ đồn điền - trang trại như sau:
- Từ đầu đến giữa những năm 1920 là phát canh thu tô theo lối phong kiến.
- Từ sau những năm 1920 đến trước cách mạng tháng Tám 1945 họ cưỡng mộ công nhân vào làm các đồn điền - trang trại và bóc lột người lao động hết sức tàn nhẫn, vô nhân đạo, thậm chí họ còn dùng xác chết của công nhân ở các đồn điền để bón cho cây cao su…
- Từ cách mạng tháng 8 năm 1945 đến năm 1975.
+ Ở miền Nam: các loại đồn điền tư bản, thực dân ở những vùng địch tạm chiến vẫn tồn tại và phát triển.
+ Ở miền Bắc: Nhà nước tiến hành tịch thu các đồn điền của thực dân Pháp và địa chủ phản động đem chia cho nông dân không ruộng và chuyển một số thành cơ sở sản xuất nông nghiệp của nhà nước. Đến năm 1957, nhà nước đã chính thức thành lập các nông, lâm trường quốc doanh. Từ những năm 1958 đến năm 1960 các hợp tác xã sản xuất nông nghiệp bậc thấp, quy mô thôn đã được thành lập, rồi lên bậc cao, quy mô liên thôn, đến quy mô xã có tính phổ biến trên toàn miền Bắc. Các hình thức đó đã có tác dụng lớn trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, cũng như xây dựng hệ thố ng thủy lợi, cải tạo đồng ruộng… nên sau năm 1975 cũng được áp dụng ở miền Nam đã được quốc hữu hóa như ở miền Bắc trước đây.
- Từ 1975 đến 1986:
Như trên đã nói, sau khi giải phóng miền nam những đồn điền - trang trại kiểu Tư bản chủ nghĩa đã được Nhà nước tịch thu và chuyển thành những nông trường quốc doanh.
Nói chung, thời kì hòa bình, khôi phục và phát triển nền kinh tế cả nước theo hướng quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội và vẫn áp dụng mô hình cũ - xây dựng nền kinh tế nông nghiệp mang nặng tính kế hoạch, tập trung. Chỉ có 2 hình thức kinh tế chủ yếu (trong thành phần kinh tế Xã hội chủ nghĩa) là nông trường quốc doanh và hợp tác xã nông nghiệp đã bộc lộ nhiều khuyết tật cần được đổi mới.
- Từ 1986 đến nay: Đảng và Chính phủ đã công nhận sự tồn tại tất yếu, vai trò của kinh tế trang trại và đã ban hành một số chính sách hỗ trợ phát triển.
+ Nghị quyết 10 (tháng 4 năm 1987) của Bộ Chính trị về đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nông nghiệp khẳng định: Hộ gia đình là đơn vị kinh tế tự chủ, khuyến khích phát triển.
+ Luật đất đai năm 1993 khẳng định ruộng đất là của Nhà nước, Nhà nước giao cho hộ nông dân và các tổ chức kinh tế sử dụng ổn định, lâu dài.
+ Nghị định 02/CP (1994) quy định giao đất lâm nghiệp cho các tổ chức và cá nhân, hộ gia đình thời hạn 50 năm.
+ Nghị định 03/CP (1994) quy định giao khoán kinh doanh rừng và đất rừng lâu dài cho các cá nhân, hộ gia đình.
+ Nghị định 64/CP (1999) quy định giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình và các cá nhân ổn định lâu dài, thời hạn 20 năm.
+ Nghị quyết số: 03/2000/NQ-CP ngày 02 /02/2000 của Chính phủ về kinh tế trang trại;
+ Thông tư số: 82/2000/TT-BTC ngày 14/8/2000 của Bộ Tài chính hướng dẫn chính sách tài chính nhằm phát triển kinh tế trang trại;
+ Thông tư số: 23/2000/TT-BLĐTBXH ngày 28/9/2000 của Bộ Lao động thương binh và xã hội hướng dẫn áp dụng một số chế độ đối với người lao động làm việc trong các trang trại [1];
+ Các Thông tư Liên tịch số: 69/2000/TTLT/BNN-TCTK ngày 23/6/2000 và 62/TTLT/BNN-TCTK ngày 20/5/2003 của liên Bộ Nông nghiệp và PTNT, Tổng cục Thống kê và hướng dẫn tiêu chí để xác định kinh tế trang trại [12];
Các chính sách trên đã đi vào cuộc sống làm chuyển biến nền nông nghiệp nước ta. Trong quá trình phát triển này, một loại hình tổ chức sản xuất mới trong nông nghiệp ra đời: Một số hộ nông dân, cá nhân đã tích luỹ kinh nghiệm sản xuất, tích tụ đất đai, đầu tư thâm canh chuyển sang sản xuất hàng hoá hình thành nên các trang trại đóng góp ngày càng lớn vào sự nghiệp phát triển kinh tế nước ta.
* Tóm lược lịch sử hình thành kinh tế trang trại ở Bắc Kạn
- Thời kỳ phong kiến, pháp thuộc Bắc Kạn là một tỉnh có chế độ “Thổ ty” của người Tày là tộc người đa số ở địa phương. Việc một số quan lại được vua chúa ban thưởng nhiều đất đai trong thời kỳ phong kiến là một thực tế, tuy nhiên với đặc điểm của nền kinh tế tự cấp tự túc nên có thể nói trang trại chưa hình thành vào thời gian này.
- Thời kỳ thuộc pháp: Thực dân pháp thực hiện việc khai thác thuộc địa rất mạnh ở Bắc Kạn, tuy nhiên chỉ đơn thuần là khai thác khoáng sản. Việc lập đồn điền trồng cây hàng hoá tập trung tại địa phương là không có, họ chỉ du nhập một số giống cây để trồng thử nghiệm ở địa phương.
- Trong thời kỳ kháng chiến chống pháp và xây dựng CNXH ở miền Bắc: Các hợp tác xã nông nghiệp ra đời cũng là việc các hộ gia đình có nhiều ruộng đất đã hiến hoặc góp hoa lợi vào hợp tác. Cùng với nó là việc vận động định canh định cư đưa người Dao và Mông “hạ sơn” và vào hợp tác xã để cùng có ruộng.
- Thời kỳ đổi mới kinh tế: Vấn đề đổ vỡ của các hợp tác xã nông nghiệp cũng dẫn tới việc tự phát đòi lại ruộng đất ông cha. Rất nhiều hộ gia đình kinh tế mới và định canh định cư vì không còn ruộng nước canh tác đã tiến hành
lập trại tại các vùng đầu nguồn sông, suối để làm kinh tế nông lâm kết hợp. Chính sách hỗ trợ trồng rừng phủ xanh đất trống đồi núi trọc theo chương trình 327 đã được chính quyền địa phương triển khai và nhân dân tích cực tham gia. Bên cạnh đó, Nhà nước còn thực hiện chính sách hỗ trợ dãn dân thực hiện chương trình 327 cho hàng nghìn hộ trên địa bàn tỉnh. Trong bối cảnh như vậy đã hình thành nên một loại hình kinh tế mới, đó là các trang trại tách biệt ra khỏi các khu dân cư làng bản lâu đời. Đại đa số các trang trại này là của những gia đình nông dân bị sức ép do mất đất canh tác sau thời kỳ đòi lại “ruộng đất ông cha” ở Bắc Kạn cuối những năm 1980, còn lại một số ít là của công nhân viên chức, bộ đội phục viên và tiểu thương có điều kiện về kinh tế.
1.1.4. Quá trình phát triển kinh tế trang trại ở nước ta từ khi đổi mới theo nền kinh tế thị trường
* Giai đoạn 1989-1999:
Để “đổi mới” về kinh tế, ở Đại hội VI (12/1986) Đảng đã chỉ ra, trong thời kỳ quá độ ở nước ta là “nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần” và tiếp đến (4/1989) trong nông nghiệp có Nghị Quyết VI năm 1989, Đảng chỉ ra rằng “gia đình xã viên trở thành những đơn vị kinh doanh tự chủ” đồ ng thời, luật doanh nghiệp tư nhân cũng được công bố ngày 3/1/1991. Đó chính là những cơ sở để hệ thống trang trại phát triển với tốc độ và quy mô càng cao lớn hơn.
Trên thực tế từ năm 1989 đến 1999, từ Nam Bộ đến các tỉnh đồng bằng Sông Cửu Long, miền Đông Nam Bộ, Tây Nguyên hoặc tới các tỉnh miền núi phía Bắc đã hình thành từng loại trang trại. Các loại trang trại này chuyên môn hóa sản xuất lúa, mía, cà phê, cao su, cây ăn quả, chè,… và chăn nuôi các loại lợn, gia cầm, trâu bò. Hoặc chuyên môn hóa lúa kết hợp hợp lý các ngành với quy mô từ nhỏ, vừa, lớn đến cực lớn. quy mô diện tích đất kinh
doanh phổ biến là trên dưới 5 ha đến 10 - 20 - 30, thậm chí đến hàng trăm ha (như ngư trại khai hoang lấn biển nuôi trồng thủy sản nông thôn của ông Nguyễn Văn Khanh ở huyện An Hải - Hải Phòng có diện tích kinh doanh từ 246 - 300 ha).
Có trang trại rộng hàng nghìn hoặc hơn 200 ha đất canh tác hay làm trại trồng rừng cũng có hơn 200 ha. Các chủ trang trại hầu hết đã sử dụng lực lượng cơ khí, nhất là máy kéo và lao động làm thuê. Giá trị tổng sản phẩm của các trang trại loại nhỏ phổ biến là trên dưới 100 đến 200 triệu, loại vừa 200 triệu đến 1 tỷ, loại lớn 1 tỷ đến 5 tỷ, loại cực lớn là trên 5 tỷ.
Nhìn chung, các trang trại đã xuất hiện và phát triển ở nhiều nơi kể cả vùng đồng bằng sông Hồng là nơi đất hẹp người đông. Nhưng phát triển nhanh nhất là ở các tỉnh huyện trung du, miền núi và nhiều tỉnh của Nam Bộ hoặc ở vùng đất mới khai hoang, lấn biển.
Theo số liệu điều tra của Tổng cục Thống kê, năm 1989 tổng số có
5.125 trang trại, đến năm 1992 đã tăng lên đến 13.246 trang trại, nhiều hơn gấp 2,53 lần. Đến ngày 1/7/1999 cả nước có 90.167 trang trại, tăng gấp 6,8 lần so với năm 1989. Diện tích đất trong kinh doanh nông nghiệp trong cùng thời gian từ năm 1989 đến năm 1992 đã tăng từ 22.946 ha lên 58.282 ha, gấp 2,54 lần, đến năm 1999 tăng lên 396.282 ha, gấp 6,81 lần so với năm 1992 và gấp 17,29 lần so với năm 1989. Vốn đầu tư của các trang trại cả nước, nếu tính từ khi mới thành lập ở năm 1989 của 5.125 trang trại có chừng 513.677 triệu đồng thì đến năm 1999 của 90.167 trang trại đã đầu từ đến 18.030.000 triệu đồng nhiều hơn gấp 35,1 lần. Điều đó phản ánh trình độ đầu tư thâm canh, áp dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá của các trang trại trong 10 năm qua đã dần dần tăng lên. Tổng giá trị sản phẩm bình quân của các trang trại trong những năm 1997-1999 được chừng 9.575 tỷ đồng/năm chiếm 7,89% giá trị tổng sản phẩm nông nghiệp. Đặc biệt là tỷ suất
nông sản hàng hoá của các trang trại ở năm 1992 chiếm 78,6% thì năm 1999 đã tăng lên đến 86,74% [17].
Như vậy, trong 10 năm (1989-1999) kinh tế trang trại đã phát triển với tốc độ ở những năm sau tăng nhanh hơn những năm trước. Thêm vào đó cần lưu ý là ở những vùng có bình quân diện tích ruộng đất nông nghiệp cao và có truyền thống sản xuất hàng hoá như đồng bằng sông Cửu Long và những vùng trung du miền núi (có nhiều đất trống đồi trọc) hoặc ở các vùng khai hoang lấn biển (như Cồn Ngạn, H. Giao Thuỷ, T. Nam Định) thì tốc độ và quy mô phát triển trang trại rất nhanh.
* Giai đoạn 2000-2006:
Sau khi có Nghị quyết 03/2000/NQ-CP của Chính phủ về kinh tế trang trại, kinh tế trang trại tiếp tục phát triển và ngày càng đóng vai trò quan trọng trong sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản [21].
- Số lượng trang trại (1) tăng nhanh, loại hình sản xuất đa dạng đã góp
phần tích cực vào quá trình chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp.
Biểu 1.3: Số lượng trang trại phân theo vùng ở Việt nam 2000 - 2006
Đơn vị tính: Trang trại
2000 | 2001 | 2002 | 2003 | 2004 | 2005 | 2006 | |
Cả nước | 57.069 | 61.017 | 61.787 | 86.141 | 110.832 | 114.362 | 113.730 |
Đồng bằng sông Hồng | 1646 | 1834 | 1939 | 5.031 | 8.131 | 9.637 | 13.863 |
Đông Bắc | 2793 | 3201 | 3210 | 4.859 | 4.984 | 5.473 | 4704 |
Tây Bắc | 282 | 135 | 163 | 367 | 400 | 395 | 522 |
Bắc Trung Bộ | 4084 | 3013 | 3216 | 4.842 | 5.882 | 6.706 | 6.756 |
Duyên hải Nam Trung Bộ | 3122 | 2904 | 2943 | 6.509 | 6.936 | 7.138 | 7.808 |
Tây Nguyên | 3589 | 6035 | 6223 | 6.650 | 9.450 | 9.623 | 8.785 |
Đông Nam Bộ | 9586 | 12705 | 12126 | 14.938 | 18.921 | 18.808 | 16.867 |
Đồng bằng sông Cửu Long | 31967 | 31190 | 31967 | 42.945 | 56.128 | 56.582 | 54.425 |
Có thể bạn quan tâm!
- Thực trạng và một số giải pháp phát triển kinh tế trang trại ở tỉnh Bắc Kạn - 2
- Đặc Trưng Của Kinh Tế Trang Trại
- Vai Trò Của Kinh Tế Trang Trại Trong Quá Trình Phát Triển Kinh Tế
- Một Số Kết Luận Rút Ra Từ Nghiên Cứu Lý Luận Và Thực Tiễn
- Điều Kiện Thời Tiết - Khí Hậu, Thuỷ Văn
- Nguồn Lực Tài Chính Và Khả Năng Huy Động Vốn Cho Đầu Tư Phát Triển
Xem toàn bộ 133 trang tài liệu này.
Nguồn: Tổng cục Thống kê
(1) Theo tiêu chí trang trại được qui định trong Thông tư số 74/2003/TT-BNN ngày 4/7/2003 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
Kinh tế trang trại phát triển nhanh về số lượng ở tất cả các vùng trong cả nước, đến thời điểm 01/7/2006, cả nước có 113.730 trang trại, so với năm 2001 tăng 52.713 trang trại (-86,4%), so với năm 2004 tăng 2.898 trang trại (-2,5%). Đồng bằng sông Cửu Long, Đông Nam Bộ và Tây Nguyên là những vùng có nhiều đất đai, mặt nước thuận lợi để mở rộng qui mô trồng trọt, chăn nuôi và nuôi trồng thuỷ sản là những vùng tập trung số lượng trang trại nhiều nhất. Ba vùng này có 80.077 trang trại, chiếm 70,4%. Riêng Đồng bằng sông Cửu Long hiện có 54.425 trang trại chiếm gần 50% số trang trại cả nước. Loại hình sản xuất của trang trại ngày càng đa dạng và có sự chuyển dịch về cơ cấu theo hướng giảm tỷ trọng các trang trại trồng cây hàng năm và cây lâu năm và tăng tỷ trọng các loại trang trại chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản và sản xuất kinh doanh tổng hợp. Tỷ trọng trang trại trồng cây hàng năm giảm từ 35,6% (năm 2001), xuống còn 28,7% (năm 2006); trang trại trồng cây lâu năm từ 27,2% giảm xuống còn 20,2%; trang trại chăn nuôi từ 2,9% tăng lên 14,7%; trang trại nuôi trồng thuỷ sản từ 27,9% tăng lên 30,1% trong thời gian tương ứng. Vùng Đồng bằng sông Cửu Long có 54.425 trang trại; trong đó 24.425 trang trại trồng cây hàng năm, chiếm 44,9% số lượng trang trại của vùng, 25.147 trang trại nuôi trồng thuỷ sản, chiếm 46,2%. Đông Nam Bộ có 16.867 trang trại chiếm 14,8% của cả nước; trong đó 9537 trang trại trồng cây lâu năm, chiếm 56,5% số lượng trang trại của vùng, 3.839 trang trại chăn nuôi, chiếm 22,8%. Tây Nguyên có 8.785 trang trại, chiếm 7,7% của cả nước; trong đó 7.046 trang trại trồng cây lâu năm, chiếm 80,2% số lượng trang trại của vùng. Đồng bằng sông Hồng có 13.863 trang trại chiếm 12,2% của cả nước, trong đó
7.562 trang trại chăn nuôi, chiếm 54,5% của vùng.
- Trang trại sử dụng ngày càng nhiều ruộng đất, dấu hiệu tích tụ ruộng đất - điều kiện tiên quyết cho nền sản xuất lớn nông nghiệp.
Tại thời điểm 01/7/2006, diện tích đất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản do