Bên cạnh đó, nhiều sự kiện ngoại giao lớn đã Việt Nam tổ chức thành công trong những năm gần đây. Việt Nam đã tổ chức rất thành công hội nghị cấp cao Á – ÂU ASEM 5 vào hai ngày 8-9/10/2004. Hội nghị đã đi tới thống nhất được nhiều vấn đề về kinh tế, thương mại song và đa phương, nhiều hợp đồng thương mại được ký kết. Uy tín của Việt Nam đã được nâng lên trên trường quốc tế. Năm 2006, Việt Nam tổ chức thành công hội nghị cấp cao APEC, tác động tích cực đến quá trình gia nhập WTO, thúc đẩy Hoa Kỳ thông qua Quy chế PNTR với Việt Nam. Nhờ đó, Việt Nam được các nước châu Á nhất trí giới thiệu ứng cử ghế Uỷ viên không thường trực Hội đồng Bảo an LHQ nhiệm kỳ 2008-2009. Năm 2006 có thể nói là năm thắng lợi rực rỡ về công tác đối ngoại của Việt Nam, là cột mốc đánh dấu tiến trình hội nhập của Việt Nam với khu vực và thế giới, nâng cao đáng kể vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Chính việc tăng cường quan hệ ngoại giao với các nước và tổ chức quốc tế cũng như việc Việt Nam tổ chức thành công các sự kiện, Việt Nam được các nước và nhà ĐTNN đánh giá rất cao về môi trường chính trị, làm các nhà đầu tư yên tâm đầu tư tại Việt Nam, có ảnh hưởng tích cực tới thu hút vốn FDI.
2.1.3. Môi trường chính sách, pháp luật
Từ khi thực hiện chính sách đổi mới mở cửa, hệ thống chính sách và pháp luật về hoạt động đầu tư nói chung và FDI nói riêng đã và đang được hoàn thiện. Luật đầu tư nước ngoài được Quốc hội khóa VIII, kỳ họp thứ 2 thông qua vào ngày 31/12/1987 và được sửa đổi bổ sung 4 lần vào các năm 1990, 1992, 1996 và 2000. Ngày 29/12/2005, Luật đầu tư chung đã được Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ 8 thông qua và có liệu lực thi hành từ ngày 01/7/2006. Luật đầu tư chung thay thế cho Luật đầu tư nước ngoài năm 1996, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đầu tư nước ngoài năm 2000 và Luật khuyến khích đầu tư trong nước năm 1998.
2.1.3.1. Giai đoạn 1987-1990
Vào những năm 1980, nước ta rơi vào khủng hoảng kinh tế trầm trọng. Năm 1986, lạm phát trên 700%. Hàng hóa thiếu thốn không đáp ứng nhu cầu của nhân dân. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật lạc hậu; nhiều hợp tác xã và xí nghiệp quốc doanh sản xuất đình trệ, lâm vào tình trạng thiếu vốn; nhiều người không có việc làm và đời sống gặp khó khăn. Đứng trước tình hình đó, Đại hội Đảng VI đã đặt ra mục tiêu
giải quyết việc làm và đời sống, chuyển từ nền kinh tế kế hoạch tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế. Để thu hút vốn đầu tư ĐTNN cho phát triển kinh tế, Quốc hội khóa 8, kỳ họp thứ 2 ngày 31/12/1987 đã thông qua Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Luật ĐTNN 1987 được xây dựng dựa trên rút kinh nghiệm của Điều lệ đầu tư năm 1977, xuất phát từ tình hình cụ thể của Việt Nam, tham khảo tư vấn quốc tế và tham khảo 18 luật của các nước nhằm chọn vấn đề thích hợp nhất, tối ưu nhất. Theo GS.TSKH Nguyễn Mại, tại thời điểm đó, Luật ĐTNN 1987 được quốc tế đánh giá là thông thoáng nhất khu vực. Luật ĐTNN 1987 đã tạo đà cho dòng vốn ĐTNN chảy vào Việt Nam. Luật gồm 6 chương 42 điều, cụ thể có các chương: Những quy định chung, hình thức đầu tư, biện pháp bảo đảm đầu tư, quyền lợi và nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân ĐTNN, cơ quan nhà nước quản lý đầu tư của nước ngoài và điều khoản cuối cùng. Cùng với Luật ĐTNN 1987, từ năm 1987 đến trước khi có Luật sửa đổi, bổ sung năm 1990, Việt Nam đã ban hành 4 đạo luật, 6 pháp lệnh và 14 Nghị định hướng dẫn thi hành Luật và pháp lệnh về các lĩnh vực kinh tế ngành trong đó có liên quan đến ĐTNN, như Luật thuế xuất nhập khẩu ban hành ngày 11/1/1988, Pháp lệnh về chế độ kế toán thống kê ngày 20/5/1988, Nghị định 139/CP ngày 5/9/1988 về hướng dẫn thực hiện Luật ĐTNN năm 1987, Chỉ thị 56/CT ngày 5/3/1988 về Kinh tế đối ngoại, Chỉ thị 163/CT ngày 12/6/1989 về Phương thức kêu gọi vốn ĐTNN, 6 Thông tư hướng dẫn về lệ phí xét đơn, nộp thuế, và hạch toán kế toán của các dự án ĐTNN.
Mặc dù được đánh giá là thông thoáng, Luật ĐTNN 1987 là đạo luật đầu tiên điều chỉnh hoạt động FDI nên còn những quy định còn thể hiện sự dè dặt trong hợp tác đầu tư với nước ngoài. Muốn đầu tư thì nhà đầu tư phải có dự án được thẩm định để được cấp giấy phép đầu tư, thời gian thẩm định kể từ khi nhận đủ hồ sơ hợp lệ đến khi được cấp Giấy phép đầu tư tối đa là 3 tháng. Thời hạn đầu tư của dự án có vốn nước ngoài chỉ tối đa 20 năm. Luật ĐTNN 1987 quy định 3 hình thức đầu tư: xí nghiệp liên doanh, xí nghiệp 100% vốn nước ngoài, BCC. Hình thức tổ chức của các xí nghiệp có vốn nước ngoài là công ty trách nhiêm hữu hạn. Không cho phép tư
Có thể bạn quan tâm!
- Năng Lực Cạnh Tranh Của Nền Kinh Tế
- Nhu Cầu Phát Triển Kinh Tế Xã Hội Của Các Quốc Gia
- Xu Hướng Phát Triển Khoa Học Và Công Nghệ Trên Thế Giới
- Tổng Hợp Các Văn Bản Pháp Luật Liên Quan Đến Đtnn
- Tốc Độ Tăng Trưởng Gdp Việt Nam Giai Đoạn 1990- 2009
- Chi Phí Vận Tải Đường Biển Từ Các Thành Phố Châu Á
Xem toàn bộ 224 trang tài liệu này.
nhân độc lập tham gia hợp tác đầu tư với nước ngoài mà phải chỉ có tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân được tham gia hợp tác với nước ngoài. Về góp vốn trong xí nghiệp liên doanh, bên nước ngoài góp vốn tối thiểu 30% vốn pháp định, và không được góp vốn bằng tiền Việt Nam. Ngay từ Luật ĐTNN năm 1987, Hội đồng quản trị quyết định theo nguyên tắc nhất trí cho những vấn đề quan trọng trong tổ chức hoạt động của xí nghiệp liên doanh như cán bộ lãnh đạo của xí nghiệp, phương hướng và kế hoạch hoạt động của xí nghiệp. Lao động Việt Nam được ưu tiên tuyển dụng ở các xí nghiệp có vốn ĐTNN. Chỉ áp dụng ưu đãi mức thuế lợi tức với xí nghiệp liên doanh và chỉ xí nghiệp liên doanh được phép chuyển lỗ trong thời gian tối đa không quá 5 năm. Thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài từ 5%-10% trong khi đó hoàn 100% thuế lợi tức cho phần lợi nhuận tái đầu tư. Xí nghiệp có vốn ĐTNN phải trích lập quỹ dự phòng ở mức 25% vốn pháp định. Dù hoạt động hợp tác ĐTNN mới ở bước khởi đầu nhưng những quy định của Luật ĐTNN 1987 cũng thể hiện mong muốn thu hút được nhiều vốn ĐTNN kể cả phần lợi nhuận tái đầu tư và nhận được nhiều lợi ích của ĐTNN nhất là thông qua liên doanh.
Giai đoạn 1988-1990 là giai đoạn khởi đầu, lượng vốn FDI thu hút vào Việt Nam còn thấp. Nhà ĐTNN bắt đầu tìm hiểu về môi trường đầu tư tại Việt Nam nên còn dè dặt trong việc bỏ vốn đầu tư, chủ yếu thực hiện đầu tư dưới hình thức liên doanh nhằm giảm rủi ro đầu tư, đảm bảo an toàn cho đồng vốn sinh lời. Nguồn vốn FDI đã bắt đầu thể hiện được vai trò của mình với nền kinh tế Việt Nam. Những hạn chế của Luật ĐTNN 1987 được tiếp tục khắc phục nhằm khung pháp luật ngày càng đồng bộ cho hoạt động FDI.
Quốc hội khóa 8, kỳ họp thứ 7 ngày 30/6/1990 đã thông qua Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật ĐTNN 1987. Luật ĐTNN sửa đổi 1990 đã sửa đổi bổ sung 15 điều của Luật ĐTNN 1987. Để có thể thu hút được nhiều hơn FDI, Luật ĐTNN sửa đổi 1990 đã mở rộng hình thức ĐTNN, cho phép tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân thuộc các thành phần kinh tế được hợp tác đầu tư với nước ngoài, hình thức liên doanh được mở rộng gồm liên doanh nhiều bên và liên doanh mới, những mâu thuẫn trong chính sách khuyến khích đầu tư theo hướng thay thế nhập
khẩu được khắc phục.
Các luật sửa đổi từ năm 1990 cho thấy Việt nam đã mở rộng hình thức đầu tư, giảm rào cản gia nhập thị trường nên ĐTNN ngày càng tăng. Bắt đầu tư năm 1991, dòng vốn FDI vào Việt Nam đã liên tục tăng. Việc sửa đổi Luật đã làm nhiều nhà ĐTNN quan tâm đến việc đầu tư vào Việt Nam, yên tâm khi thực hiện đầu tư tại Việt Nam. Tuy nhiên, trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng tăng giữa các quốc gia để thu hút được nhiều vốn FDI, môi trường pháp luật của Việt Nam vẫn cần tiếp tục hoàn thiện.
2.1.3.2. Giai đoạn 1990-1996
Luật ĐTNN tiếp tục được sửa đổi. Quốc hội đã ngày 23/12/1992 đã thông qua Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật ĐTNN. Luật ĐTNN sửa đổi 1992 đã bổ sung mới 3 điều và sửa đổi bổ sung 9 điều. Luật ĐTNN sửa đổi 1992 tiếp tục tạo ra môi trường pháp lý thuận lợi cho nhà ĐTNN. Về phương thức đầu tư, các nhà ĐTNN được đầu tư vào khu chế xuất và theo hình thức BOT. DN tư nhân được phép hợp tác với nước ngoài. Bên Việt Nam được góp vốn bằng các nguồn tài nguyên, quyền sử dụng đất, mặt nước, mặt biển và tiền nước ngoài; được tăng dần tỷ trọng vốn góp Bên Việt Nam hoặc mua lại phần vốn góp của Bên nước ngoài. Luật ĐTNN sửa đổi 1992 đã khuyến khích các nhà ĐTNN đầu tư dài hạn, tăng thời hạn đầu tư lên mức tối đa 50 năm, trong trường hợp đặc biệt có thể đến 70 năm. Với quy định trong các Nghị định ban hành trong giai đoạn này, thời gian thẩm định cấp giấy phép đầu tư đã giảm từ 3 tháng xuống 60 ngày. Xí nghiệp 100% vốn nước ngoài được hưởng các ưu đãi về thuế và được chuyển lỗ như xí nghiệp liên doanh. Xí nghiệp có vốn ĐTNN được mở tài khoản vốn vay tại ngân hàng ở nước ngoài. Luật sửa đổi 1992 Xí nghiệp 100% vốn nước ngoài được hưởng các ưu đãi về thuế và được chuyển lỗ như xí nghiệp liên doanh bắt đầu xóa bỏ phân biệt giữa các hình thức đầu tư, là nguyên nhân ảnh hưởng đến cơ cấu vốn đầu tư trực tiếp nước theo hình thức đầu tư.
Trong giai đoạn 1990-1996, Việt Nam đã ban hành nhiều luật, pháp lệnh có liên quan đến ĐTNN. Cụ thể như, Luật hàng không năm 1992, Luật dầu khí năm
1993, Luật khoáng sản năm 1996, Luật công đoàn năm 1990, Luật đất đai năm 1993, Luật khuyến khích đầu tư trong nước năm 1994, Luật thuế lợi tức năm 1990, Luật thuế xuất nhập khẩu năm 1992, Pháp lệnh Ngân hàng, hợp tác xã và Công ty tài chính năm 1990, Pháp lệnh về quyền và nghĩa vụ của tổ chức cá nhân nước ngoài thuê đất tại Việt Nam. Giai đoạn này, chính phủ ban hành 68 nghị định hướng dẫn thi hành Luật và pháp lệnh có liên quan đến ĐTNN.
Như vậy, số văn bản pháp quy ở giai đoạn này tăng lên rõ rệt, từng bước tạo ra môi trường pháp luật cho hoạt động FDI ngày càng hoàn thiện hơn, góp phần tăng tính hấp dẫn của môi trường FDI tại Việt Nam. Chính sự đúng đắn trong việc lựa chọn đường lối “đổi mới”, chính sách “mở cửa” cùng với nỗ lực cải thiện môi trường pháp luật trong giai đoạn này đã tạo ra thành tựu thu hút FDI. Giai đoạn này được coi là làn sóng đầu tư thứ nhất vào Việt Nam. Khung pháp luật, chính sách ĐTNN giai đoạn này đã tập trung xây dựng chính sách ưu đãi về thuế, giá thuê đất, điện, nước, và nhân công đối với những vùng kinh tế xã hội khó khăn và lĩnh vực cần khuyến khích đầu tư; xây dựng danh mục mặt hàng khuyến khích thay thế nhập khẩu và khuyến khích hàng xuất khẩu; bước đầu có chính sách khuyến khích thu hút công nghệ mới, công nghệ cao. Ưu đãi giữa đầu tư trong nước và ĐTNN có sự khác biệt rõ rệt.
2.1.3.3. Giai đoạn 1996-2000
Giai đoạn này, Việt Nam tăng cường hợp tác kinh tế quốc tế. Hệ thống luật về ĐTNN bộc lộ những hạn chế, như một số văn bản quy phạm pháp luật chưa thống nhất, còn mâu thuẫn, thủ tục hành chính còn rườm rà, quy hoạch còn chưa rõ ràng, quy định còn quá chung chung gây khó khăn cho việc thực hiện. Những hạn chế này làm mất thời gian cũng như chi phí của nhà ĐTNN. Để khắc phục những hạn chế này, ngày 12/11/1996, Quốc hội khóa 9 kỳ họp thứ 10 thông qua Luật ĐTNN mới. Được soạn thảo dựa trên Luật ĐTNN 1987, Luật sửa đổi 1990 và 1992, Luật ĐTNN 1996 cũng gồm 6 chương: Những quy định chung, hình thức đầu tư, biện pháp bảo đảm đầu tư, quyền lợi và nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân ĐTNN, quản lý nhà nước về ĐTNN và điều khoản cuối cùng. Luật ĐTNN 1996 đã có một
số điểm hấp dẫn hơn so với khung pháp luật chính sách về ĐTNN trước đây. Luật ĐTNN 1996 có quy định về đầu tư vào khu công nghiệp và mở rộng thêm phương thức đầu tư BTO, BT; cho phép các bệnh viện, trường học, viện nghiên cứu hợp tác đầu tư với nước ngoài, DN liên doanh được thành lập liên doanh mới với DN Việt Nam. Bên nước ngoài được phép góp vốn bằng tiền Việt Nam có nguồn gốc đầu tư tại Việt Nam. Luật ĐTNN 1996 cho phép và khuyến khích Việt kiều về đầu tư với mức giảm thuế lợi tức 20% so với dự án cùng loại và mức thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài thấp nhất 5%. Luật quy định lĩnh vực, địa bàn khuyến khích ĐTNN, lĩnh vực đầu tư có điều kiện và địa bàn không cấp phép ĐTNN. Ưu đãi về thuế, Luật quy định lại về miễn giảm thuế lợi tức, cụ thể DN có vốn ĐTNN được miễn thuế tối đa 2 năm kể từ khi kinh doanh có lãi và giảm 50% thuế lợi tức trong 2 năm tiếp theo, nếu dự án đáp ứng nhiều tiêu chuẩn khuyến khích thì được miễn thuế lợi tức tối đa 4 năm kể từ khi kinh doanh có lãi và giảm 50% thuế lợi tức trong 4 năm tiếp theo, với dự án đặc biệt khuyến khích đầu tư thì được miễn thuế lợi tức tối đa 8 năm. Quy định hoàn lại thuế lợi tức đã nộp cho lợi nhuận tái đầu tư bị loại bỏ trừ trường hợp tái đầu tư vào các dự án khuyến khích đầu tư thì được hoàn lại một phần hoặc toàn bộ. Mức thuế lợi tức chuyển nhượng vốn phát sinh lợi nhuận là 25% lợi nhuận thu được, nếu chuyển cho Bên Việt Nam thì được giảm hoặc miễn thuế. Miễn thuế nhập khẩu áp dụng cho máy móc thiết bị, phương tiện vận chuyển đưa đón công nhân viên, loại bỏ quy định miễn thuế nhập khẩu với vật tư và ô tô con; miễn giảm tiền thuê đất, mặt nước, mặt biển với dự án BOT, BTO, BT và dự án đầu tư vào địa bản khó khăn; Chính phủ bảo đảm hỗ trợ cân đối ngoại tệ cho các công trình hạ tầng, sản xuất thay thế hàng nhập khẩu thiết yếu và các công trình quan trọng khác. Những vấn đề phải thực hiện theo nguyên tắc nhất trí được thu hẹp, chỉ còn 4 đề mục gồm: bổ nhiệm, miễn nhiệm Tổng giám đốc, phó Tổng giám đốc, Kế toán trưởng, sửa đổi bổ sung điều lệ DN, duyệt quyết toán thu chi tài chính hàng năm và quyết toán công trình, vay vốn đầu tư. DN FDI được phép mở chi nhánh tại các địa phương khác tỉnh thành phố đặt trụ sở chính. Quản lý Nhà nước đối với ĐTNN được quy định rõ hơn và tăng cường, thực hiện quản lý theo cơ chế “1 cửa”. DN
FDI cũng như các bên tham gia được quyền khiếu nại, khởi kiện với quyết định và hành vi gây khó khắc phiền hà của công chức và cơ quan nhà nước. Chính phủ quy định việc cấp giấy phép đầu tư của Bộ kế hoạch đầu tư, phân cấp cấp Giấy phép đầu tư cho Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố có đủ điều kiện, quy định cấp giấy phép đầu tư cho dự án đầu tư vào Khu công nghiệp, Khu chế xuất.
Luật ĐTNN 1996 đã tiếp tục đưa ra biện pháp khuyến khích ĐTNN, làm rõ những quy định còn chung chung, đơn giản thủ tục đầu tư. Luật ĐTNN 1996 đã từng bước xóa bỏ dần khoảng cách giữa khung pháp luật về ĐTNN và đầu tư trong nước.
Trong giai đoạn 1996-2000, Việt Nam ban hành nhiều luật điều chỉnh hoạt động ĐTNN. Chính sách, hệ thống pháp luật trong giai đoạn này tập trung hoàn thiện chính sách thuế và tài chính như Luật thuế giá trị gia tăng và Luật thuế thu nhập DN năm 1997, Luật sửa đổi bổ sung Luật thuế xuất nhập khẩu năm 1998. Giai đoạn này, chính phủ ban hành 41 nghị định hướng dẫn liên quan đến ĐTNN. Đặc biệt, Nghị định 10/1998/NĐ-CP đã đã tiếp tục khẳng định tính ổn định về chính sách thu hút FDI, trong trường hợp có quy định mới làm phương hại lợi ích của DN FDI thì những quy định mới không áp dụng đối với DN FDI, và nếu có quy định mới ưu đãi hơn thì DN FDI sẽ được hưởng. Việc đảm bảo lợi ích của nhà ĐTNN khi thực hiện đầu tư ở Việt Nam đã làm cho nhà đầu tư yên tâm đầu tư, mạnh dạn bỏ vốn đầu tư. Ngoài ra, Nghị định này cũng khẳng định quyền tự do lựa chọn đối tác, cơ hội đầu tư của nhà đầu tư, cụ thể hóa chính sách khuyến khích đầu tư, đơn giản hóa thủ tục cấp phép và sau cấp phép đầu tư. DN có vốn ĐTNN được tự chủ hơn khi thành lập DN cũng như tổ chức quản lý kinh doanh tại Việt Nam.
2.1.3.4. Giai đoạn 2000-2004
Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi bổ sung của Luật ĐTNN vào ngày 9/6/2000. Luật ĐTNN sửa đổi năm 2000 đã sửa đổi, bổ sung 20 điều và bổ sung 2 điều mới so với Luật ĐTNN năm 1996. Luật ĐTNN sửa đổi năm 2000 tiếp tục tăng cường khuyến khích đầu tư hướng về xuất khẩu. Về hình thức tổ chức quản lý DN, các quy định về chia, tách, sáp nhập, hợp nhất DN được bổ sung. Thời gian cấp giấy
phép đầu tư đối với dự án thẩm định cấp giấy phép giảm xuống còn 45 ngày, với dự án đăng ký cấp giấy phép đầu tư còn 30 ngày. Những vấn đề phải thực hiện theo nguyên tắc nhất trí tiếp tục được thu hẹp: bổ nhiệm, miễn nhiệm Tổng giám đốc, phó Tổng giám đốc thứ nhất; sửa đổi bổ sung điều lệ DN. Luật quy định nguyên tắc không hồi tố: cho phép DN có vốn ĐTNN tiếp tục được hưởng ưu đãi ghi trong Giấy phép đầu tư trong trường hợp pháp luật thay đổi làm ảnh hưởng đến lợi ích của nhà đầu tư. Đối với máy móc thiết bị, nguyên liệu mà trong nước chưa sản xuất được hoặc dự án đầu tư vào địa bàn, lĩnh vực khuyến khích đầu tư được miễn thuế nhập khẩu. Giảm mức thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài từ 5-10% xuống còn 3- 7%. Quy định ưu tiên chuyển nhượng vốn cho phía Việt Nam bị loại bỏ. Bên nước ngoài tham gia BCC được chuyển lỗ. Luật bỏ quy định lập quỹ dự phòng theo tỷ lệ bắt buộc.
Rõ ràng, khung pháp luật chính sách ĐTNN trong giai đoạn này tiếp tục hoàn thiện. Việt Nam đã ban hành 6 Luât, 4 Pháp lệnh, 22 Nghị quyết của Quốc hội, 51 Nghị định và 8 Chỉ thị có liên quan đến ĐTNN. Khung pháp luật chính sách giai đoạn này được xây dựng nhằm từng bước tạo ra mặt bằng pháp lý chung giữa ĐTNN và đầu tư trong nước, và phù hợp với lộ trình thực hiện các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã tham gia. Chính sách bảo hộ từng bước được xóa bỏ nhằm khuyến khích sự phát triển bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, chỉ bảo hộ có thời hạn sản xuất trong nước, những ngành cần phát triển. Nhà ĐTNN được tham gia đầu tư vào nhiều lĩnh vực hơn, các hạn chế đối với ĐTNN cũng từng bước được loại bỏ. Chính sách bảo hộ đầu tư trong nước cũng như mở rộng lĩnh vực thu hút ĐTNN phải phù hợp với cam kết quốc tế. Chế độ hai giá một số hàng hóa, dịch vụ giữa đối tượng trong nước và nước ngoài từng bước xóa bỏ nhằm loại bỏ sự phân biệt này vào đầu năm 2005. Phân cấp cấp giấy phép đầu tư được mở rộng cho các UBND tỉnh, thành phố. Chế độ đăng ký cấp giấy phép đầu tư được mở rộng phù hợp với cam kết quốc tế. Thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài được bãi bỏ cho nhà ĐTNN từ ngày 1/1/2004.
Khung pháp luật chính sách đầu tư giai đoạn này đã tiếp tục giảm sự phân