thức công ty TNHH, công ty cổ phần thời gian hoạt động không quá 50 năm, trường hợp đặc biệt không quá 70 năm nhưng phải có sự đồng ý của cơ quan nhà nước.
Doanh nghiệp có tư cách pháp nhân, thành lập và hoạt động theo hình thức công ty TNHH, tuân thủ theo pháp luật của nước sở tại.
Toàn bộ vốn đầu tư duy trì sản xuất kinh doanh, kể cả phần đầu tư xây dựng cơ sở vật chát ban đầu do nhà đầu tư nước ngoài bỏ ra.
Vốn pháp định của doanh nghiệp không thấp hơn 30% vốn đầu tư. Trong thời gian hoạt động hoạt động không được giảm vốn pháp đinh. Việc tăng vốn pháp định phải được cơ quan cấp giấy phép chuẩn y.
Chủ đầu tư nước ngoài nắm 100% quyền quản lý, điều hành sản xuất, kinh doanh và tự chịu tách nhiệm với hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
- Hình thức doanh nghiệp liên doanh
Doanh nghiệp liên doanh la doanh nghiệp được thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng kinh doanh giữa bên hoặc các bên Việt Nam với bên hoặc các bên nước ngoài, hoặc trên cơ sở Hiệp định giữa Chính phủ Việt Nam với Chính phủ nước ngoài, nhằm hoạt động kinh doanh trên lãnh thổ Việt Nam.
Doanh nghiệp liên doanh là pháp nhân Việt Nam và được thành lập theo hình thức công ty TNHH, mỗi bên liên doanh chịu trách nhiệm đối với bên kia, với doanh nghiệp liên doanh và bên thứ ba trong phạm vi phần vốn của mình vào vốn pháp định.
Doanh nghiệp liên doanh hoạt động theo nguyên tắc tự chủ tài chính trên cơ sở hợp đồng liên doanh, phù hợp với giấy phép đầu tư và pháp luật Việt Nam.
Doanh nghiệp liên doanh có tài sản riêng do các bên liên doanh đóng góp và là sở hữu chung của các bên liên doanh. Các bên liên doanh chịu rủi ro, lỗ, lãi, theo tỷ lệ đóng góp vào doanh nghiệp liên doanh.
Doanh nghiệp liên doanh được thành lập sau khi Bộ Kế hoạch và Đầu tư cấp giấy phép đầu tư và chứng nhận đăng ký Điều lệ doanh nghiệp.
Ngoài ba hình thức cơ bản trên còn có các hình thức khác như:
- Hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (B.O.T.):
Hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (B.O.T.) là văn bản ký kết
giữa chủ đầu tư nước ngoài (cá nhân hoặc tổ chức nước ngoài) với cơ quan Nhà nước Việt Nam có thẩm quyền để xây dựng các công trình hạ tầng, tiến hành khai thác và kinh doanh trong một thời hạn nhất định và khi hết thời hạn thì chuyển giao không bồi hoàn công trình đó cho Nhà nước Việt Nam.
Vốn để thực hiện hợp đồng này có thể là 100% vốn nước ngoài cộng với vốn của Chính phủ Việt Nam, hoặc tổ chức, cá nhân Việt Nam. Các chủ đầu tư có toàn quyền tổ chức xây dựng, khai thác, kinh doanh công trình trong một thời gian nhất định đủ để thu hồi vốn đầu tư và có lợi nhuận hợp lý.
Hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao có hiệu lực khi được Bộ Kế hoạch và Đầu tư cấp giấy phép đầu tư.
- Hợp đồng xây dựng - chuyển giao- kinh doanh (BTO): là hình thức đầu tư được ký kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư chuyển giao công trình đó cho Nhà nước Việt Nam; Chính phủ dành cho nhà đầu tư quyền kinh doanh công trình đó trong một thời hạn nhất định để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận.
- Hợp đồng xây dựng – chuyển giao (BT): là hình thức đầu tư được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư chuyển giao công trình đó cho Nhà nước Việt Nam; Chính phủ tạo điều kiện cho nhà đầu tư thực hiện dự án khác để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hoặc thanh toán cho nhà đầu tư theo thoả thuận trong hợp đồng BT.
3.3. Theo mục đích đầu tư
- Đầu tư theo chiều dọc (Vertical Investment)
Đầu tư theo chiều dọc là hình thức đầu tư để sản xuất ra những sản phẩm phục vụ cho việc sản xuất là một sản phẩm cuối cùng nào đó. Nó bao gồm:
Backward Vertical Investment: đầu tư sản xuất linh kiện để hoàn thiện sản phẩm cuối cùng
Forward Vertical Investment: đầu tư sản xuất sản phẩm, sau đó sẽ đưa sản phẩm ra thị trường tiêu thụ để đến tay người tiêu dùng.
- Đầu tư theo chiều ngang (Horizontal Investment)
Doanh nghiệp đầu tư là cùng sản xuất một sản phẩm cùng loại với công ty đầu tư mẹ hoặc trong cùng một lĩnh vực đầu tư.
- Đầu tư hỗn hợp (Conglomerate Investment)
Doanh nghiệp đầu tư và công ty đầu tư mẹ sản xuất nhiều sản phẩm khác nhau trong cùng một ngành hoặc khác ngành.
3.4. Theo định hướng của nước nhận đầu tư.
Căn cứ vào định hướng của nước nhận đầu tư, đầu tư trực tiếp nước ngoài dược chia thành:
FDI thay thế nhập khẩu: nước nhận đầu tư thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào những lĩnh vực mà trước đây thường phải nhập khẩu. Với việc đầu tư trực tiếp nước ngoài thay thế nhập khẩu, nước tiếp nhận đầu tư có thể tiết kiệm ngoại tệ nhập khẩu.
FDI tăng cường xuất khẩu: Đối với những nước có chính sách thúc đẩy hoạt động xuất khẩu, thu hút FDI là một trong những cách để thực hiện chính sách này.
FDI theo một số định hướng khác của Chính phủ: Tuỳ theo mục đích của mình, chính phủ các nước có những định hướng nhất định khi thu hút FDI.
Ngoài ra, xét theo góc độ chủ đầu tư, hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài còn được chia thành: Đầu tư phát triển (đầu tư nước ngoài nhằm tìm kiếm và mở rộng thị trường, tăng doanh thu); đầu tư phòng ngự (đầu tư ra nước ngoài nhằm giảm chi phí, tăng thu nhập). Hoặc, dựa vào ảnh hưởng của FDI đến thương mại của nước nhận đầu tư, chia đầu tư trực tiếp nước ngoài thành: FDI ảnh hưởng tích cực; FDI ảnh hưởng tiêu cực.
II. MÔI TRƯỜNG ĐẦU TƯ
1. Khái niệm
Theo cách hiểu chung nhất, môi trường đầu tư được định nghĩa như sau:
Môi trường đầu tư là tổng hoà các yếu tố về pháp luật, kinh tế, chính trị, văn hoá xã hội và các yếu tố cơ sở hạ tầng, năng lực thị trường, lợi thế của một quốc gia có liên quan, ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến hoạt động đầu tư của nhà đầu tư trong và ngoài nước[9].
Cụ thể hơn, khái niệm môi trường đầu tư được World Bank đưa ra xuất phát từ góc độ của các doanh nghiệp:
Môi trường đầu tư là tập hợp các nhân tố địa điểm nhất định tạo ra cơ hội và động cơ cho các doanh nghiệp đầu tư một cách có hiệu quả, tạo việc làm và mở rộng [19]..
2. Các yếu tố cấu thành
Có rất nhiều cách phân chia các yếu tố tạo nên môi trường đầu tư của một quốc gia. Theo cách phân chia truyền thống, môi trường đầu tư bao gồm môi trường pháp luật, môi trường chính trị, môi trường kinh tế và môi trường văn hóa con người. Theo UNCTAD, các yếu tố quyết định đến dòng FDI vào của nước nhận đầu tư được chia thành 3 nhóm là: Khung chính sách cho FDI; các yếu tố kinh tế của quốc gia; và các hỗ trợ trong kinh doanh [18].
Các yếu tố cấu thành môi trường đầu tư |
I. Khung chính sách Tăng trưởng thi trường Các quy định lên quan đến việc thành lập và hoạt động Các chính sách về hỗ trợ thị trường Hiệp định về thương mai và đầu tư Hiệp định thương mại và đầu tư Chính sách tư nhân hóa Chính về thương mai và sự thống nhất giữa các chính sách Chính sách tư nhân II. Yếu tố kinh tế III. Yếu tố thuận lợi trong kinh doanh xúc tiến đầu tư Xúc tiến đầu tư Ưu đãi đầu tư Phụ phí và dịch vụ tiện ích Dịch vụ hỗ trợ sau khi được phép đầu tư |
Có thể bạn quan tâm!
- Môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam trên bản đồ các nước Đông Á, thực trạng và giải pháp - 1
- Môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam trên bản đồ các nước Đông Á, thực trạng và giải pháp - 2
- Fdi Định Hướng Nguồn Lực (Resource/ Asset – Seeking)
- Lịch Sử Hình Thành Và Phát Triển Liên Kết Khu Vực
- Tỷ Trọng Thương Mại Nội Khối (% Tổng Thương Mại Của Khối)
Xem toàn bộ 133 trang tài liệu này.
Yếu tố kinh tế phân loại theo động cơ của các TNCs |
A. Động cơ tìm kiếm thị trường Quy mô thị trường và thu nhập bình quân đầu người Tăng trưởng thi trường Tiếp cận thị trường thế giới và thị trường khu vực Sự ưa chuộng của người tiêu dùng Kết cấu thị trường |
B. Tìm kiếm nguồn nguyên liệu Nguyên vật liệu thô Lao động phổ thông giá rẻ Lao động có trình độ Tài sản của doanh nghiệp Cơ sở hạ tầng |
C. Tìm kiếm hiệu quả Chi phí thuê nguồn lực và tài sản Chi phí các yếu tố đầu vào Hiệp định ký kết với các nước trong khu vực |
Nguồn: UNCTAD, World Investment Report 1998, www.unctad.org
2.1. Khung chính sách cho FDI
2.1.1. Ổn định chính trị
Các yếu tố về chính trị của nước sở tại có ảnh hưởng rất lớn đến quyết định đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài. Tính ổn định về chính trị ở từng quốc gia cũng như mối quan hệ tốt về chính trị của quốc gia đó với các quốc gia khác trên thế giới là nhân tố quan trọng quyết định độ an toàn của môi trường đầu tư. Không có sự ổn định về chính trị thì sẽ không có điều kiện ổn định về kinh tế, lành mạnh hóa xã hội.
Sự ổn định về chính trị thể hiện ở chỗ các thể chế quan điểm chính trị ở đó có được đa số nhân dân đồng tình ủng hộ hay không, quan hệ giữa các đảng phái đối lập và vai trò kinh tế của họ, đảng cầm quyền có đủ tin cậy và uy tín hay không…Do quan điểm chính trị không đồng nhất nên sự can thiệp của các chính phủ sẽ diễn ra với những mức độ khác nhau đối với các nhà đầu tư đến từ các quốc gia khác nhau. Do đó khi tham gia kinh doanh quốc tế, các nhà đầu tư luôn đặc biệt chú ý đến các hình thức của chính phủ nước sở tại, vì nó sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của nhà đầu tư, cho phép nhà đầu tư hoặc là mở rộng hoặc là thu hẹp phạm vi mặt hàng kinh doanh trong từng môi trường khác nhau, đối với từng thị trường và đối tác khác nhau.
Đối với Việt Nam, sự ổn định về chính trị là một thế mạnh trong thu hút đầu tư, đặc biệt là trong bối cảnh mất ổn định của thế giới như hiện nay. Đây là một yếu tố mà chúng ta cần khai thác và phát huy để nâng cao năng lực cạnh tranh của môi trường đầu tư quốc gia.
2.1.2. Hệ thống pháp luật điều chỉnh các hoạt động FDI.
Một trong những yếu tố ảnh hưởng lớn tới hoạt động đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài đó là hệ thống pháp luật của nước sở tại. Luật quốc tế và luật của từng quốc gia có ảnh hưởng trực tiếp đến cách thức tiến hành và kết quả hoạt động của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài. Luật pháp sẽ qui định và cho phép những lĩnh vực, những hoạt động và hình thức đầu tư nào mà nhà đầu tư có thể đầu tư và những lĩnh vực, những hình thức nhà đầu tư nước ngoài không được phép tiến hành hoặc được phép nhưng chỉ có giới hạn.
Mỗi quốc gia đều đã và đang xây dựng hệ thống pháp luật riêng để điều chỉnh các hoạt động đầu tư của các nhà ĐTNN, nó bao gồm: luật đầu tư nước ngoài, luật thuế, luật ngân hàng và tín dụng…
Các chính sách quốc gia có thể là từ cấm FDI thâm nhập vào thị trường trong nước, cho đến không phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư trong nước với nhà đầu tư nước ngoài, thậm chí đối xử ưu đãi hơn với các nhà đầu tư nước ngoài. Tùy theo từng mục đích của chính phủ các nước sở tại, các chính sách này sẽ làm tăng hoặc giảm dòng FDI, ảnh hưởng đến phân bổ FDI theo ngành, lĩnh vực hoặc địa bàn. Để đạt được mục tiêu này, bên cạnh việc sử dụng các chính sách điều chỉnh trực tiếp FDI, các nước thường sử dụng kèm với các chính sách khác để cùng tạo ảnh hưởng tới quyết định đầu tư của các chủ đầu tư: chính sách tài khóa ảnh hưởng đến mức thuế, bao gồm cả thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế thu nhập cá nhân. Nếu các yếu tố khác không thay đổi, thuế thu nhập doanh nghiệp càng thấp sẽ càng hấp dẫn các nhà đầu tư. Cũng như vậy, thuế thu nhập cá nhân có ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của các nhà quản lý và việc sử dụng lao động nước ngoài. Ngoài ra còn có những chính sách làm tăng đáng kế lợi thế địa điểm của quốc gia như chính sách về y tế, giáo dục, chính sách về môi trường hoặc các chính sách thúc đẩy phát triển cơ sở hạ tầng…ví dụ để thu hút FDI thay thế nhập khẩu, các quốc gia Mỹ – Latinh sử dụng các chính sách khuyến khích FDI kết hợp với chính sách bảo hộ thương mại. Trong khi đó để thu hút FDI hướng về xuất khẩu các nước châu á lại sử dụng chính sách khuyến khích FDI kết hợp với chính sách tự do thương mại.
2.1.3. Các hiệp định đầu tư quốc tế
Trong thực tế, để tạo ra môi trường thuận lợi nhằm thu hút các nhà ĐTNN, các quốc gia thường tiến hành thỏa thuận, ký kết các hiệp định, hiệp ước song phương và đa phương. Các hiệp định này đã cung cấp một không gian quốc tế cho các chính sách FDI quốc gia. Các hiệp định ở các cấp độ khác nhau cũng có tác động khác nhau tới khung chính sách pháp luật về FDI của một quốc gia.
- Các hiệp định đầu tư song phương (BITs)
Các hiệp định đầu tư song phương (BITs) vốn được ký kết giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển, với quan điểm xúc tiến đầu tư giữa các nước trong hiệp định. Hiện nay, BITs cũng được ký kết giữa các nước phát triển, hay giữa các nước đang phát triển với nhau.
Các hiệp định này củng cố các tiêu chuẩn song phương về bảo hộ và đối xử với các nhà ĐTNN và xây dựng thống nhất cơ chế giải quyết tranh chấp. Do đó nó có ảnh hưởng tới khung chính sách FDI, góp phần vào việc cải thiện môi trường đầu tư.
- Khung hội nhập khu vực (RIFs)
Tác động của RIFs lên khung chính sách FDI thể hiện bằng việc các nước thành viên phải đảm bảo cam kết tuân thủ theo một khung chính sách tự do đã có sẵn, hoặc tự do hóa khung chính sách này nếu chúng còn hạn chế, hài hòa các chính sách, tham gia vào những thay đổi tự do hóa, củng cố các tiêu chuẩn về đối xử và bảo hộ và khuyến khích các chính sách đảm bảo chức năng hoạt động của thị trường.
Ảnh hưởng của RIFs đối với khung chính sách FDI có nhiều mức độ. Trong phần lớn các RIFs, nhân tố trung tâm và quan trọng nhất tác động tới FDI định hướng thị trường là việc tự do hóa các rào cản thương mại và mở cửa cho các nước thành viên. Tự do hóa thương mại giữa các nước thành viên tạo ra một môi trường đầu tư hấp dẫn vì nó sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các công ty nước ngoài trong khu vực tiếp cận thị trường thành phẩm và sản phẩm trung gian của khu vực. Trong trường hợp của liên minh thuế quan và khu vực thương mại tự do, việc phân biệt đối xử với các nước ngoài khu vực bằng hàng rào thuế quan khiến cho qui mô thị trường khu vực càng trở nên hấp dẫn hơn.
RIFs cũng có thể ảnh hưởng đến tốc độ tự do hóa chính sách FDI và thương mại. Muốn than gia một hiệp định nào đó các nước phải đảm bảo một số yêu cầu nhất định, trong đó có yêu cầu về tự do hóa khung chính sách FDI. Đây có thể coi là một động lực khiến các nước đẩy nhanh quá trình tự do hóa khung chính sách FDI của mình, tạo điều kiện thu hút được nhiều hơn vốn FDI
Ngay kể cả khi áp lực tự do hóa không thực sự tác động đến chính sách FDI, chúng cũng có thể ảnh hưởng đến khung chính sách chung của một nước thành viên theo hướng khuyến khích FDI.
Mặc dù việc thay đổi chính sách FDI theo hướng mở cửa không đảm bảo chắc chắn sẽ thu hút được FDI như mong muốn. Nhưng nếu they đổi theo hướng hạn chế
thì chắc chắn có thể đóng cửa dòng FDI một cách hiệu quả. Do đó một khung chính sách FDI cởi mở là điều kiện cần, nhưng chưa đủ, để thu hút FDI vào một quốc gia.
Tóm lại, các quốc gia đều đã nhận thức được tầm quan trọng của hành lang pháp lý về FDI đối với việc thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn vốn này. Hầu hết các quốc gia đều đã có chính sách cởi mở hơn về FDI. Các chủ đầu tư ngày càng có nhiều địa điểm để lựa chọn và do đó ngày càng chọn lọc và khắt khe hơn khi xem xét môi trường đầu tư của nước tiếp nhận. Sự cạnh tranh gay gắt giữa các quốc gia trong cuộc chạy đua thu hút FDI cho thấy chỉ có các chính sách tự do là chưa đủ, cần phải áp dụng các biện pháp chuyên sâu và tích cực hơn để tạo thuận lợi cho các giao dịch kinh doanh của các nhà ĐTNN và củng cố các nhân tố kinh tế trong thu hút FDI.
2.2. Các nhân tố kinh tế
Thông thường các yếu tố kinh tế của nước nhận đầu tư có ảnh hưởng đến FDI là những yếu tố quyết định trong thu hút FDI. Mỗi một động cơ đầu tư khác nhau sẽ tìm kiếm những yếu tố kinh tế khác nhau trong môi trường đầu tư của nước chủ nhà. Theo UNCTAD, các yếu tố kinh tế của môi trường đầu tư có thể chia thành 3 loại sau [18]:
2.2.1. FDI định hướng thị trường (Market – seeking)
Các nhân tố kinh tế ảnh hưởng đến dòng FDI định hướng thị trường chính là dung lượng thị trường được qui định bởi qui mô dân số, thu nhập bình quân/người và tốc độ tăng trưởng của thị trường. Thị trường càng lớn càng hấp dẫn các nhà đầu tư. Thị trường lớn có thể tạo điều kiện cho nhiều công ty và giúp các công ty tiêu thụ được nhiều sản phẩm để phát huy tính kinh tế của qui mô. Thu nhập bình quân/ngườicho biết sức mua của người dân và Tốc độ tăng trưởng cho thấy triển vọng phát triển của nền kinh tế đó. Một mức độ tăng trưởng cao sẽ khuyến khích các nhà sản xuất trong nước và ngoài nước mở rộng đầu tư.
Thị trường quốc gia là yếu tố hướng tới của FDI còn như một cách thức khôn ngoan để tránh các hàng rào thuế quan được dựng lên để bảo hộ các thị trường sản xuất trong nước khỏi cạnh tranh quốc tế. Đối với các TNCs hoạt động trong ngành