Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài Đối Với Nước Chủ Đầu Tư

giai đoạn đổi mới sẽ diễn ra ở các nước phát triển vì ở những nước này mới có điều kiện để nghiên cứu và phát triển ( P&R) ngay tại doanh nghiệp và có khả năng triển khai sản xuất với số lượng lớn. Đồng thời chỉ có ở những nước này mới có kỹ thuật tiên tiến với đặc trưng sử dụng nhiều vốn nên phát huy được hiệu quả sử dụng cao. Do vậy mà sản phẩm sản xuất ra với giá thành hạ và nhanh chóng đạt tới mức bão hòa.

Để tránh lâm vào tình trạng suy thoái và khai thác có hiệu quả sản xuất theo quy mô, công ty phải mở rộng thị trường tiêu thụ ra quốc tế, nhưng các hoạt động xuất khẩu lại gặp trở ngại từ hàng rào thuế quan và cước phí vận chuyển quốc tế. Vì thế mà các công ty phải di chuyển sản xuất ra các nước để vượt qua các trở ngại này. Đây cũng là cách mà các nhà đầu tư kéo dài chu kỳ sống cho sản phẩm vì tại nước chủ nhà, sản phẩm đã đến giai đoạn cuối cần phải được thanh lý, thay mới, nhưng nhờ được xuất sang nước nhận đầu tư, nó nghiễm nhiên lại là giai đoạn đầu và được tiếp tục “một cuộc sống mới”.

Như vậy theo cách giải thích của Vernon thì FDI là kết quả của quá trình phát triển tự nhiên của sản phẩm theo chu kỳ.

Một số nhà kinh tế học như Petrochilos (1989) cho rằng chính lý thuyết này đã cung cấp một cách giải thích khác về FDI, nhất là đối với các sản phẩm chế tác, ứng dụng công nghệ hiện đại.

Phát triển lý thuyết chu kỳ sản phẩm, Akamatsu (1962) đã xây dựng lý thuyết chu kỳ sản phẩm bắt kịp để giải thích nguyên nhân của FDI. Theo lý thuyết này, sản phẩm mới được phát minh và ra đời ở nước đầu tư, sau đó được xuất khẩu ra thị trường thế giới. Tại nước nhập khẩu, do ưu điểm của sản phẩm mới làm cho nhu cầu của thị trường nội địa tăng lên, nước nhập khẩu chuyển hướng sản xuất để thay thế sản phẩm nhập khẩu này bằng các chủ yếu dựa vào vốn, kỹ thuật… của quốc tế. Đến khi nhu cầu thị trường của sản phẩm ở trong nước đạt đến mức

bão hòa, nhu cầu xuất khẩu lại xuất hiện và cứ thế nó diễn ra theo chu kỳ và dần hình thành FDI [15].

c. Phân tán rủi ro cho vốn đầu tư

Hoạt động FDI cũng như hoạt động đầu tư nói chung đều gắn liền với yếu tố rủi ro. Do vậy, việc lựa chọn các dự án khác nhau với các đối tác khác nhau không những nhằm mục đích đạt được lợi nhuận cao mà còn nhằm chia sẻ rủi ro cho các nhà đầu tư. Hay nói cách khác, các nhà đầu tư luôn tìm cách đa dạng hóa hoạt động đầu tư của mình. Tiêu biểu cho cách tiếp cận này là lý thuyết của Tobin (1958) và Marko Witj (1959). Khi đưa ra luận điểm đa dạng hóa đầu tư trong quá trình nghiên cứu hoạt động FDI, họ đã đưa ra hai biến số quyết định là tỷ lệ lợi nhuận và mức độ rủi ro và thấy rằng: FDI thường được thực hiện vào những nước và ở một số ngành công nghiệp không những có tỷ lệ lợi nhuận cao , mà còn được đảm bảo ít xảy ra rủi ro.

Trên thực tế, khi tiến hành hoạt động FDI là nhà đầu tư sẽ phải đánh đổi giữa tỷ lệ rủi ro với lợi nhuận, thậm chí phải chấp nhận rủi ro để tìm kiếm lợi nhuận. Lợi nhuận và rủi ro sẽ hình thành ngay từ khi dự án bắt đầu và có sự khác biệt ít nhiều so với mức độ tính toán ban đầu của chủ đầu tư. Vì vậy mà trước khi bắt đầu dự án, các nhà đầu tư rất coi trọng hoạt động thăm dò để nhằm đạt hiệu quả mong muốn mà không phải đánh đổi. Chính vì thế, trong những năm gần đây, nắm bắt được nhu cầu về vốn, công nghệ, thị trường nguyên liệu cũng như thị trường tiêu thụ, an ninh chính trị… ở các nước đang phát triển nên khu vực Châu Á đang có sức hút mạnh mẽ đối với dòng vốn FDI từ các nước phát triển.

1.1.3. Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 124 trang tài liệu này.

a. Phân loại dựa vào kênh đầu tư

Theo cách phân loại này, FDI được thực hiện theo hai kênh chủ yếu là đầu tư mới (Greenfield investment- GI) và Mua lại và sáp nhập (Mergers and cquisition

Mặt trái của đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam - 3

- M&A).

+ Đầu tư mới (Greenfield investment - GI): Đầu tư mới là các chủ đầu tư thực hiện đầu tư ở nước ngoài thông qua việc xây dựng các doanh nghiệp mới. Đây là kênh đầu tư truyền thống của FDI và cũng là kênh chủ yếu để các nhà đầu tư ở các nước phát triển đầu tư vào các nước đang phát triển.

+ Mua lại và sáp nhập (Mergers and acquisition - M&A): là các chủ đầu tư tiến hành đầu tư thông qua việc mua lại và sáp nhập các doanh nghiệp hiện có ở nước ngoài. Kênh đầu tư này chủ yếu được thực hiện ở các nước đang phát triển, các nước mới công nghiệp hóa và rất phổ biến trong những năm gần đây.

Ở Việt Nam, FDI vẫn chủ yếu được thực hiện theo kênh GI. Kiểu đầu tư này có vai trò rất quan trọng đối với quá trình tạo ra những cơ sở vật chất kỹ thuật cần thiết để công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, nếu chỉ thu hút FDI theo kênh GI thì không đón bắt được xu thế ngày nay, như vậy sẽ làm hạn chế khả năng thu hút FDI vào nước ta.

b. Phân loại dựa vào mục đích đầu tư

Theo cách này, FDI được chia làm 2 loại là đầu tư trực tiếp nước ngoài theo chiều ngang (Horizontal FDI) và đầu tư trực tiếp nước ngoài theo chiều dọc (Vertical FDI).

+ Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo chiều ngang (Horizontal FDI): là việc công ty tiến hành đầu tư trực tiếp nước ngoài vào chính ngành sản xuất mà họ có lợi thế cạnh tranh một loại sản phẩm nào đó. Với lợi thế này họ muốn tìm kiếm lợi nhuận cao hơn ở nước ngoài nên đã mở rộng và thôn tính thị trường nước ngoài. Hình thức này thường dẫn đến cạnh tranh độc quyền mà Mĩ, Nhật Bản đang dẫn đầu ở các nước phát triển.

+ Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo chiều dọc (Vertical FDI): khác với hình thức đầu tư theo chiều ngang, hình thức đầu tư theo chiều dọc với mục đích khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên và các yếu tố đầu vào rẻ như: lao động, đất đai… của các nước nhận đầu tư. Do các nhà đầu tư thường chú ý khai thác các

lợi thế cạnh tranh của các yếu tố đầu vào giữa các khâu trong quá trình sản xuất ra một loại sản phẩm trong phân công lao động quốc tế nên các sản phẩm thường được hoàn thiện qua lắp ráp ở nước nhận đầu tư. Sau đó các sản phẩm này lại được nhập khẩu về nước đầu tư hay xuất khẩu sang nước khác. Đây là hình thức khá phổ biến của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại các nước đang phát triển.

c. Phân loại dựa vào hình thức sở hữu

+ Doanh nghiệp liên doanh: đây là hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài mà qua đó pháp nhân mới được thành lập gọi là doanh nghiệp liên doanh. Doanh nghiệp mới này do một hay nhiều bên hợp tác thành lập tại nước chủ nhà trên cơ sở hợp đồng liên doanh. Hình thức này có các đặc trưng: Pháp nhân mới được thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn có tư cách pháp nhân. Mỗi bên tham gia vào doanh nghiệp liên doanh là một pháp nhân, doanh nghiệp liên doanh là một pháp nhân độc lập với các bên tham gia. Khi các bên đã đóng góp đủ số vốn đã quy định vào liên doanh thì dù một bên có phá sản, doanh nghiệp liên doanh vẫn tồn tại. Dù vậy, các bên tham gia vẫn có mối liên quan với nhau và với doanh nghiệp liên doanh trong phạm vi của số vốn của họ góp vào vốn pháp định.

Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam quy định: số người tham gia hội đồng quản trị lãnh đạo doanh nghiệp của các bên phụ thuộc vào tỉ lệ vốn góp. Hội đồng quản trị là cơ quan cao nhất lãnh đạo liên doanh. Hội đồng quản trị quyết định theo nguyên tắc nhất trí đối với các vấn đề quan trọng như: duyệt quyết toán thu chi tài chính hàng năm và quyết toán công trình, sửa đổi bổ sung điều lệ doanh nghiệp, vay vốn đầu tư, bổ nhiệm, miễn nhiệm tổng giám đốc, phó tổng giám đốc thứ nhất và kế toán trưởng…Lợi nhuận hay rủi ro đều được phân chia theo tỉ lệ góp vốn của mỗi bên.

Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam còn quy định thời gian hoạt động của liên doanh thường từ 30 đến 50 năm, trường hợp đặc biệt không quá 70 năm và doanh nghiệp liên doanh phải giải thể khi hết thời gian hoạt động, trừ khi được phép của cơ quan quản lý nhà nước về hợp tác và đầu tư gia hạn. Trong 1 số trường hợp đặc biệt bất khả kháng, doanh nghiệp liên doanh có thể kết thúc hợp đồng sớm hơn.

+ Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài: đây là doanh nghiệp thuộc quyền sở hữu của tổ chức hoặc cá nhân nước ngoài, được hình thành bằng toàn bộ vốn nước ngoài và do tổ chức hoặc cá nhân nước ngoài thành lập, tự quản lý, điều hành và hoàn toàn chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh. Doanh nghiệp này được thành lập dưới dạng các công ty trách nhiệm hữu hạn, là pháp nhân Việt Nam và chịu sự điều chỉnh của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.

Vốn pháp định cũng như vốn đầu tư do nhà đầu tư nước ngoài đóng góp, vốn pháp định ít nhất bằng 30% vốn đầu tư của doanh nghiệp .

+ Hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC): đây là hình thức đầu tư trực tiếp trong đó hợp đồng hợp tác kinh doanh được ký kết giữa hai hay nhiều bên (gọi là các bên hợp tác kinh doanh) để tiến hành một hay nhiều hoạt động kinh doanh ở nước nhận đầu tư, trong đó quy định trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên tham gia mà không cần thành lập một pháp nhân mới. Mỗi bên vẫn hoạt động với tư cách pháp nhân của mình và thực hiện các nghĩa vụ của mình đối với nhà nước.

Ngoài các hình thức cơ bản kể trên, còn có các hình thức Hợp đồng xây dựng

- kinh doanh - chuyển giao ( BOT); Hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh (BTO); và Hợp đồng xây dựng - chuyển giao (BT) [23].‌

1.2. VAI TRÒ CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI

1.2.1.Đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với nước chủ đầu tư

So với các hình thức kinh tế đối ngoại khác, FDI có vai trò ưu việt đối với nước chủ đầu tư. Đó là:

+ FDI cho phép khai thác tất cả các lợi thế của một đất nước trong hội nhập kinh tế quốc tế. Kể cả trong toàn cầu hóa bao hàm tự do hóa thương mại nhưng FDI vẫn cho phép khai thác các yếu tố này và đưa chúng vào chu trình kinh tế thế giới qua việc mở rộng sản xuất quốc tế.

+ FDI là yếu tố quan trọng nhất để tạo ra sự bùng nổ xuất khẩu (cả về mặt lượng và cơ cấu, đặc biệt chuyển biến cơ cấu xuất khẩu theo hướng công nghiệp hóa). FDI đóng vai trò quyết định trong xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao.

+ FDI là kênh tốt nhất để huy động vốn và công nghệ trên thị trường thế giới cho công nghiệp hóa mà không gây ra tình trạng phụ thuộc một chiều vào bên ngoài [23].

1.2.2. Đối với nước nhận đầu tư

a. Vai trò tích cực của FDI

- Bổ sung nguồn vốn cho nền kinh tế, nhờ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế

Khi dòng vốn FDI được đổ vào sẽ làm tăng lượng vốn của nước nhận đầu tư như một phép cộng đương nhiên vào tổng số vốn. Thậm chí, khi vốn FDI gia tăng sẽ làm phát sinh hệ quả tích cực dây chuyền đến các dòng vốn trong nước. Nói cách khác, các nhà đầu tư trong nước sẽ nhìn gương các nhà ĐTTTNN và tăng thêm động lực để bỏ vốn đầu tư của mình. Kết quả là tổng vốn đầu tư sẽ tăng lên. Hơn nữa, khi dòng vốn FDI gia tăng sẽ là một bảo đảm và tạo động lực mới hấp dẫn hơn cho các nhà đầu tư khác mạnh dạn thông qua các quyết định đầu tư trực tiếp mới của mình. Như vậy, đầu tư trực tiếp nước ngoài vừa góp phần bổ sung nguồn vốn cho nền kinh tế, nhờ đó mà thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cho các nước nhận đầu tư.

- Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động, nâng cao năng lực sản xuất công nghiệp

Hoạt động của FDI đi kèm với các yếu tố vốn, công nghệ , trình độ kỹ năng quản lý sẽ có tác động mạnh đến cơ cấu nền kinh tế của nước tiếp nhận đầu tư. Qua nghiên cứu ở các nước tiếp nhận đầu tư, hoạt động đầu tư nước ngoài chủ yếu là đầu tư vào lĩnh vực sản xuất công nghiệp và dịch vụ, đối với ngành sản xuất nông nghiệp tỷ lệ đầu tư rất thấp và nếu có thì tập trung vào công nghiệp chế biến.

Ví dụ: ở châu Mỹ La tinh và châu Á, các doanh nghiệp FDI đã có vai trò cực kỳ quan trọng trong việc thành lập một số nhà máy sản xuất công nghiệp có quy mô lớn trong các lĩnh vực dệt may, thuộc da, đồ uống, điện tử…

FDI làm thay đổi cơ cấu kinh tế ngành ở các nước tiếp nhận đầu tư, được thể hiện như sau:

Thay đổi cơ cấu ngành ở các nước tiếp nhận đầu tư, được thể hiện ở việc chuyển đổi từ sản xuất nông nghiệp sang ngành công nghiệp và dịch vụ.

Thay đổi cơ cấu bên trong của một ngành sản xuất được thể hiện ở việc chuyển đổi năng suất lao động từ thấp đến cao, công nghệ hiện đại và sử dụng ít lao động trực tiếp.

Thay đổi cơ cấu bên trong của một lĩnh vực sản xuất thông qua việc thay đổi hàm lượng khoa học công nghệ trong một đơn vị sản phẩm.

- Góp phần đổi mới công nghệ

Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài có vai trò đặc biệt quan trọng đối với quá trình phát triển khoa học - công nghệ, nâng cao năng lực sản xuất và năng suất lao động tại nước tiếp nhận đầu tư thông qua hiệu ứng tích cực. FDI có tác động đến phát triển công nghệ của một quốc gia thông qua: chuyển giao công nghệ; phổ biến công nghệ và phát triển công nghệ .

Đối với các nước đang phát triển, để có công nghệ mới và tiên tiến phục vụ cho sản xuất thì cần phải có quá trình chuyển giao công nghệ từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển và kém phát triển. Cùng với dòng vốn FDI, công nghệ cũng được du nhập vào các nước đang phát triển. Tuy vậy, việc chuyển giao công nghệ trong thời đại hiện nay khác nhiều so với ba hoặc bốn thập kỷ trước đây. Nhận thức về chuyển giao công nghệ cũng đã thay đổi, việc chuyển giao không chỉ đơn thuần là chuyển giao các máy móc, thiết bị mà chuyển giao liên quan đến việc sử dụng dây chuyền công nghệ, kỹ năng sử dụng công nghệ và phần mềm công nghệ.

Hiện nay, việc chuyển giao công nghệ từ nước có công nghệ phát triển sang nước tiếp nhận công nghệ được tiến hành theo hai phương thức: chuyển giao trực tiếp và chuyển giao gián tiếp, trong đó, chuyển giao gián tiếp chủ yếu được thực hiện thông qua hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài. Do hoạt động chuyển giao công nghệ ngày càng trở nên phức tạp nên đầu tư trực tiếp nước ngoài trở thành một kênh chuyển giao công nghệ có hiệu quả nhất, nhanh nhất và tiết kiệm chi phí nhất. Bởi vì công nghệ đã được các công ty đa quốc gia chuyển giao trực tiếp phần cứng (máy móc, thiết bị) và phần mềm ( quá trình hoạt động của công nghệ) từ nước đầu tư đến nước tiếp nhận đầu tư. Sau khi chuyển giao, công nghệ được các chuyên gia kỹ thuật lành nghề của nước đi đầu tư đưa vào hoạt động mà không gặp bất kỳ trở ngại nào. Bằng hình thức này chi phí mua và chuyển giao công nghệ thấp hơn so với hình thức mua công nghệ trực tiếp. Bởi vì, công nghệ là một trong những đối tượng được bảo hộ về quyền sở hữu trí tuệ nên việc sao chép công nghệ khó có thể thực hiện. Như vậy, một dây chuyền công nghệ hoặc một dây chuyền sản xuất nếu mua trực tiếp sẽ đắt hơn rất nhiều lần khi nó được chuyển giao giữa công ty mẹ sang công ty con. Đây chính là ưu điểm lớn nhất về chuyển giao công nghệ trong hoạt động FDI so với các hình thức chuyển giao công nghệ khác.

Xem tất cả 124 trang.

Ngày đăng: 24/07/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí