tính thuyết phục đối với những người tham gia tố tụng; được HĐXX ghi nhận và đánh giá cao về kỹ năng tranh tụng của KSV. Đáp ứng tốt nhất nhu cầu, nhiệm vụ công tác cải cách tư pháp và nâng cao hiệu quả tuyên truyền, giáo dục pháp luật sâu, rộng đến quần chúng nhân dân.
2.3.2. Vướng mắc, bất cập khi thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong xét xử sơ thẩm vụ án kinh doanh thương mại của Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Tây Ninh
2.3.2.1. Xác định quan hệ pháp luật mà đương sự tranh chấp
Để thụ lý, giải quyết vụ việc dân sự nói chung và vụ án KDTM nói riêng, TAND phải dựa vào yêu cầu cụ thể của người khởi kiện để xác định quan hệ pháp luật mà đương sự tranh chấp. Từ đó, đối chiếu với các quy định về thẩm quyền của BLTTDS năm 2015 để xác định yêu cầu khởi kiện của đương sự có thuộc thẩm quyền của TAND hay không. Việc xác định quan hệ pháp luật tranh chấp có ý nghĩa quan trọng trong việc áp dụng pháp luật nội dung (điều chỉnh quyền và nghĩa vụ giữa các bên) trong việc giải quyết yêu cầu của đương sự. Tuy nhiên, trong thực tiễn việc phân biệt tranh chấp vụ án KDTM và tranh chấp dân sự vẫn còn có những quan điểm khác nhau. Cụ thể:
- Hiện nay, tình trạng tranh chấp giữa hộ gia đình, cá nhân không đăng ký kinh doanh ký kết hợp đồng tín dụng với ngân hàng để vay vốn phát triển kinh tế (chăn nuôi, trồng cây ăn quả). Do kinh doanh không hiệu quả, không trả được nợ, dẫn đến tranh chấp phát sinh. Việc xác định tranh chấp nêu trên là tranh chấp KDTM hay tranh chấp dân sự có nhiều ý kiến khác nhau.
- Tiếp theo, trong những vụ án mà người khởi kiện là Ngân hàng chính sách xã hội với một bên là cá nhân có đăng ký kinh doanh. Theo quy định tại Điều 3 Quyết định số 131/2002/QĐ-TTg, ngày 04/10/2002 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập Ngân hàng chính sách xã hội thì “hoạt động của Ngân hàng chính sách xã hội không vì mục đích lợi nhuận, được Nhà nước đảm bảo khả năng thanh toán...”. Như vậy, tranh chấp này là tranh chấp KDTM hay tranh chấp dân sự.
Qua công tác kiểm sát việc thụ lý, giải quyết vụ án cho thấy việc xác định tranh chấp này chưa thống nhất là do văn bản pháp luật quy định không rò ràng, chồng chéo. Cụ thể: theo quy định Điều 30 BLTTDS năm 2015 thì những tranh chấp KDTM thuộc thẩm quyền của TAND là những tranh chấp phát sinh trong hoạt động KDTM giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục
đích lợi nhuận. Nhưng điểm b khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 03/2012/NQ-HĐTP quy định: “Tòa kinh tế có nhiệm vụ, quyền hạn giải quyết các tranh chấp về kinh doanh, thương mại mà một hoặc các bên không có đăng ký kinh doanh, nhưng đều có mục đích lợi nhuận”. Tại khoản 2 Điều 156 Luật Ban hành văn bản QPPL năm 2015 quy định trong trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn. Trong trường hợp này, Điều 30 BLTTDS năm 2015 được áp dụng để xác định quan hệ pháp luật tranh chấp. Tuy nhiên, trên thực tiễn xét xử, có lúc, có nơi TAND vẫn áp dụng Nghị quyết số 03/2012/NQ-HĐTP để xác định quan hệ pháp luật tranh chấp nên đã dẫn đế sự không thống nhất quan điểm giữa VKSND và TAND trong xác định quan hệ tranh chấp. Từ đó gây khó khăn cho KSV trong quá trình kiểm sát KDTM.
Có thể bạn quan tâm!
- Khái Niệm Của Công Tác Kiểm Sát Kinh Doanh Thương Mại
- Kiểm Sát Việc Áp Dụng, Thay Đổi, Hủy Bỏ Hoặc Không Áp Dụng, Thay Đổi, Hủy Bỏ Biện Pháp Khẩn Cấp Tạm Thời Của Tòa Án
- Tình Hình Kiểm Sát Việc Giải Quyết Các Vụ Án Kinh Doanh Thương Mại Theo Quy Định Pháp Luật Trên Địa Bàn Tỉnh Tây Ninh 7
- Kiểm Sát Trình Tự, Thủ Tục Tố Tụng Trong Giải Quyết Vụ Án Kinh Doanh Thương Mại
- Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong xét xử sơ thẩm vụ án kinh doanh thương mại của Viện kiểm sát nhân dân – Lý luận và thực tiễn tại tỉnh Tây Ninh - 8
- Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong xét xử sơ thẩm vụ án kinh doanh thương mại của Viện kiểm sát nhân dân – Lý luận và thực tiễn tại tỉnh Tây Ninh - 9
Xem toàn bộ 74 trang tài liệu này.
2.3.2.2. Kiểm sát trả lại đơn khởi kiện
BLTTDS 2015 đã bổ sung thêm một số nội dung mới liên quan đến hoạt động trả lại đơn khởi kiện của Tòa án. Qua đó mở ra hành lang pháp lý cho VKSND nâng cao chất lượng kiểm sát hoạt động này. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện chức năng kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện của Thẩm phán vẫn còn một số vướng mắc trong quy định của pháp luật cần được sửa đổi, bổ sung để hoạt động kiểm sát đạt kết quả cao hơn. Cụ thể.
Một là, về thời hạn gửi thông báo trả lại đơn khởi kiện cho VKSND. Khoản 2 Điều 192 BLTTDS năm 2015 chỉ quy định bắt buộc Thẩm phán phải có văn bản nêu rò lý do trả lại đơn khởi kiện gửi cho VKSND cùng cấp nhưng lại không quy định về thời hạn TAND phải chuyển thông báo về việc trả lại đơn khởi kiện cho VKSND cùng cấp. Việc không quy định về thời gian gửi thông báo cho VKSND đã khiến công tác kiểm sát này gặp nhiều khó khăn. Do đó, việc kéo dài thời hạn kiểm sát giải quyết vụ án KDTM là không thể tránh khỏi. Thực tế, có nhiều vụ án VKSND còn không nhận được văn bản trả lại đơn khởi kiện của TAND. Điều này làm cho việc thực hiện chức năng kiểm sát của VKSND bị hạn chế, ảnh hưởng đến thời hạn giải quyết vụ án cũng như quyền lợi hợp pháp của đương sự trong vụ án KDTM.
Hai là, về công tác phối hợp với Tòa án để có được các tài liệu, hồ sơ liên quan đến trả đơn khởi kiện. Để kiểm sát tốt thông báo trả lại đơn khởi kiện, KSV phải biết được nội dung đơn khởi kiện của đương sự cùng với các tài liệu gửi kèm
theo đơn khởi kiện do đương sự nộp để đối chiếu với lý do nêu trong Thông báo trả lại đơn của TAND để xem xét thực hiện quyền kiến nghị của VKSND. Tuy nhiên, khoản 2 Điều 192 BLTTDS năm 2015 chỉ quy định Thẩm phán gửi văn bản trả lại đơn khởi kiện cho VKSND cùng cấp mà không buộc phải gửi toàn bộ bản sao chụp hồ sơ có liên quan. Mặt khác, khoản 1, Điều 21 Thông tư liên tịch số 02/2016/TTLT-VKSNDTC-TANDTC quy định “Trường hợp Viện kiểm sát cần xem xét kiến nghị việc trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu hoặc sau khi nhận được thông báo mở phiên họp giải quyết khiếu nại về việc trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu thì Viện kiểm sát gửi văn bản yêu cầu Tòa án cho sao chụp một số hoặc toàn bộ bản sao đơn khởi kiện, đơn yêu cầu và tài liệu, chứng cứ”. Theo quy định trên thì chỉ trong trường hợp cần xem xét kiến nghị VKSND mới có văn bản yêu cầu Tòa án cho sao chụp tài liệu chứ không phải trong tất cả các trường hợp trả lại đơn khởi kiện của TAND mà VKSND đều có quyền yêu cầu sao chụp tài liệu, chứng cứ. Quy định này cũng gây rất nhiều khó khăn, cản trở cho quá trình kiểm sát căn cứ trả lại đơn khởi kiện; làm ảnh hưởng đến thời gian, chất lượng kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện.
Ba là, về sự có mặt của đại diện VKSND trong phiên họp xem xét, giải quyết khiếu nại trả lại đơn khởi kiện. Theo khoản 3, Điều 194 BLTTDS năm 2015 thì phiên họp xem xét, giải quyết khiếu nại trả lại đơn khởi kiện có sự tham gia của đương sự và đại diện VKSND cùng cấp. Tại Điều 26 Thông tư liên tịch số 02/2016/TTLT-VKSNDTC-TANDTC quy định “Kiểm sát viên được phân công có nhiệm vụ tham gia phiên họp xem xét, giải quyết khiếu nại, kiến nghị về việc trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu. Trường hợp Kiểm sát viên vắng mặt thì Thẩm phán vẫn tiến hành phiên họp, trừ trường hợp Viện kiểm sát kiến nghị”.
Theo quy định trên, trong một số trường hợp TAND thông báo quá gấp cho VKSND, điều này làm cho VKSND không thể phân công KSV kịp thời tham dự mà phiên họp xem xét về việc trả lại đơn khởi kiện vẫn được tiến hành. Ngoài ra, 194 BLTTDS năm 2015 không quy định quyết định mở phiên họp của Thẩm phán có được thể hiện bằng văn bản hay không, được ban hành trước khi mở phiên họp bao lâu, có được gửi cho VKSND hay không. Vì vậy, nhiều trường hợp TAND thông báo cho VKSND trước khi mở phiên họp chỉ một ngày dẫn đến việc VKSND không đủ thời gian nghiên cứu hồ sơ khiếu nại để tham gia phiên họp. Quy định này đã
làm giảm hiệu quả của chức năng kiểm sát của VKSND trong việc kiểm sát trả lại đơn khởi kiện.
2.3.2.3. Kiểm sát việc thu thập chứng cứ, tài liệu có liên quan
Hoạt động thu thập chứng cứ của VKSND nhằm làm sáng tỏ các tình tiết, sự kiện, tìm ra căn cứ vững chắc để giải quyết vụ án KDTM. Tuy nhiên, hoạt động thu thập chứng cứ của VKSND có sự khác biệt so với TAND. Hoạt động thu thập chứng cứ, yêu cầu thu thập chứng cứ của VKSND chỉ được tiến hành sau khi Tòa án có quyết định đưa vụ án ra xét xử hoặc sau khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ án KDTM. Điều này cũng là dễ hiểu bởi chỉ từ thời điểm đó Viện kiểm sát mới nắm bắt được các tình tiết của vụ việc dân sự thông qua việc nghiên cứu hồ sơ, phát hiện được những vấn đề còn thiếu tài liệu, chứng cứ để giải quyết, từ đó đề ra kế hoạch kiểm sát phù hợp đối với từng vụ án. Tuy nhiên, quá trình kiểm sát hoạt động thu thập chứng cứ, đánh giá chứng cứ, tự thu thập chứng cứ của VKSND gặp nhiều khó khăn. Cụ thể:
Một là, về quyền yêu cầu TAND thu thập chứng cứ khi thực hiện kiểm sát việc xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ. Khoản 3 Điều 58 BLTTDS năm 2015 quy định Viện kiểm sát có quyền thực hiện “quyền yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ”. Tại Điều 22 Thông tư liên tịch số 02/2016/TTLT-VKSNDTC-TANDTC đã quy định trách nhiệm của Tòa án khi thực hiện quyền yêu cầu, đó là: “Trường hợp việc xác minh, thu thập chứng cứ theo yêu cầu của Kiểm sát viên là không thể thực hiện được hoặc Tòa án xét thấy không cần thiết thì chậm nhất là đến ngày hết thời hạn mở phiên tòa, phiên họp theo quyết định của Tòa án, Tòa án thông báo cho Kiểm sát viên bằng văn bản và nêu rò lý do”. Như vậy, theo quy định trên thì sau khi nhận được văn bản yêu cầu của KSV, nếu TAND cho rằng không cần thiết phải xác minh, thu thập thêm chứng cứ hoặc với lý do là không thể thực hiện được yêu cầu của VKSND thì đến gần ngày hết thời hạn mở phiên tòa, phiên họp theo quyết định của TAND, Thẩm phán chỉ cần thông báo cho KSV về việc không thể thực hiện theo yêu cầu của văn bản trên. Tại phiên tòa cũng vậy, trường hợp KSV thấy cần thiết phải xác minh, thu thập thêm chứng cứ nhưng HĐXX xem xét quyết định không chấp nhận yêu cầu thu thập này thì dù không nhất trí, KSV vẫn phải tiếp tục tham gia phiên tòa, phiên họp. Như vậy không phải trong bất cứ trường hợp nào VKSND có yêu cầu Biện pháp khẩn cấp tạm thời xác minh, thu thập thêm chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ án KDTM
thì TAND đều bắt buộc phải thực hiện. Việc chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu thu thập chứng cứ của KSV là tùy thuộc vào việc nhận định, đánh giá của Thẩm phán và của HĐXX. Điều này dẫn đến tình trạng KSV bị động trong quá trình nghiên cứu hồ sơ để đề xuất hướng giải quyết, báo cáo án với Lãnh đạo, tham gia phiên tòa.
Điển hình thông qua thực tiễn kiểm sát KDTM, VKSND đã thực hiện quyền yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập thêm chứng cứ đối với vụ án tranh chấp KDTM “Tranh chấp đòi tài sản và bồi thường thiệt hại” giữa nguyên đơn Công ty TNHH TH (sau đây viết tắt Công ty TH) địa chỉ Khu công nghiệp TB xã AT huyện TB tỉnh Tây Ninh và bị đơn Yang Yong Qiang (sau đây viết là Ông Yang)13:
Ông Yang là thành viên góp vốn của Công ty TH từ ngày 30/6/2015. Nhưng do không thực hiện góp vốn theo đúng cam kết nên đến ngày 25/7/2016 Ông Yang không còn là thành viên góp vốn của công ty. Trước đó, trong quá trình tham gia điều hành, quản lý Công ty TH, Ông Yang đã sử dụng tiền công ty để tiêu dùng cá nhân. Công ty TH đã nhiều lần yêu cầu Ông Yang hoàn trả lại số tiền đã lấy nhưng Ông Yang không thực hiện. Ngày 15/6/2019, Công ty TH khởi kiện Ông Yang tại TAND tỉnh Tây Ninh yêu cầu ông Yang có nghĩa vụ trả lại số tiền 2.378.988.890 đồng và bồi thường lãi suất quy định pháp luật. TAND tỉnh Tây Ninh đã tiến hành thụ lý vụ án, thực hiện niêm yết thông báo thụ lý; thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; thông báo hoãn phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải tại địa chỉ Khu công nghiệp TB xã AT huyện TB tỉnh Tây Ninh nhưng ông Yang vẫn vắng mặt lần thứ hai không có lý do chính đáng. Ông Yang cũng không có lời khai, không có ý kiến gì. TAND tỉnh Tây Ninh đã đưa vụ án ra xét xử vắng mặt. Tại phiên tòa, đại diện VKSND tỉnh Tây NInh yêu cầu HĐXX tiến hành xác minh, làm rò địa chỉ ở cuối cùng của Ông Yang để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự nhưng HĐXX không chấp nhận. Bản án sơ thẩm đã tuyên buộc ông Yang hoàn trả và bồi thường với tổng số tiền 2.775.487.038 đồng.
13 Thông báo rút kinh nghiệm, số 12/TB-VC3-V4, VKSND cấp cao, 05/3/2020.
Sau phiên tòa, để có đủ chứng cứ để kháng nghị, VKSND tỉnh Tây Ninh đã tự tiến hành thu thập chứng cứ và xác định được địa chỉ thể hiện trong hồ sơ vụ án chỉ là địa chỉ cuối cùng Ông Yang làm việc. Địa chỉ ở cuối cùng của Ông Yang là thị trấn Tân Châu huyện Tân Châu tỉnh Tây Ninh, được đăng ký tạm trú từ 31/12/2017.
Giả sử trong trường hợp nêu trên, nếu VKSND chỉ dựa vào hồ sơ để kháng nghị thì sẽ không đảm bảo căn cứ; khi tiến hành xét xử, TAND cũng không có cơ sở để quyết định chấp nhận kháng nghị của VKSND. Như vậy, thông qua hoạt động thu thập chứng cứ, VKSND mới có cơ sở chắc chắn để ban hành kháng nghị cũng như bảo vệ quan điểm của mình tại phiên tòa xét xử phúc thẩm.
Hai là, về việc thu thập, sử dụng chứng cứ điện tử trong quá trình giải quyết vụ án KDTM. Điều 94, 95 BLTTDS năm 2015 và Luật Giao dịch điện tử ghi nhận thông điệp dữ liệu điện tử cũng có giá trị làm chứng cứ giải quyết vụ án KDTM. Nhưng BLTTSD năm 2015 không có các quy định cụ thể về hình thức vật chất chứa đựng chứng cứ điện tử, trình tự thu thập, xác minh chứng cứ cũng như hướng dẫn các trình tự thủ tục tố tụng chuyên biệt để thụ lý giải quyết các tranh chấp thương mại có các chứng cứ điện tử. Thông thường, để thu thập một chứng cứ quan trọng trên máy tính, người tiêu dùng phải sử dụng dịch vụ Thừa phát lại để lập Vi bằng xác nhận tính xác thực của các nội dung hợp đồng điện tử đã giao kết, theo quy định thì giá ngạch của một dịch vụ có mức tối thiểu khoảng 30% giá trị đối với tài sản thu hồi được có tổng giá trị là 100 triệu14. Trong thực tiễn giải quyết các vụ án thương mại có những chứng cứ điện tử thì đường lối xét xử vẫn ưu tiên các chứng cứ vật chất dễ chứng minh như: Văn bản, hợp đồng có chứng thực, công chứng… Còn các chứng cứ điện tử được xem xét mang tính hỗ trợ cho các chứng cứ khác nếu phù hợp mà rất hiếm khi được sử dụng độc lập. Việc TAND không chấp nhận các chứng cứ điện tử có tính độc lập và có giá trị pháp lý như văn bản viết hoặc các chứng cứ khác sẽ làm ảnh hưởng tới quyền của các cá nhân, tổ chức khi có yêu cầu TAND giải quyết tranh chấp, đồng thời nguyên tắc của BLTTDS cũng không được tôn trọng trong thực tiễn.
14
2.3.2.4. Kiểm sát quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án kinh doanh thương mại sơ thẩm
Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, nếu có căn cứ do pháp luật quy định thì TAND ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án. VKSND có trách nhiệm kiểm sát quyết định tạm đình chỉ của TAND.
Qua thực tiễn, đa phần các căn cứ tạm đình chỉ giải quyết vụ án của TAND đều phù hợp với quy định của BLTTDS. Tuy nhiên, khi vụ án rơi vào thời điểm cuối năm thống kê của TAND (tháng 8 đến tháng 9 hàng năm), khi TAND tổng kết năm công tác, Thẩm phán thường lựa chọn giải pháp tình thế là ra quyết định tạm đình chỉ để tình lại thời hạn tố tụng theo quy định tại điểm đ, điểm h khoản 1 Điều 214 BLTTDS. Với lý do là đợi kết quả ủy thác tư pháp, thu thập chứng cứ hoặc đợi cơ quan, tổ chức cung cấp tài liệu, chứng cứ, hoặc đương sự đề nghị TAND tạm đình chỉ giải quyết vụ án…. Trong khi đó, BLTTDS lại không quy định thời hạn tối đa đối với các quyết định tạm đình chỉ mà chỉ quy định Thẩm phán chịu trách nhiệm theo dòi, đôn đốc giải quyết lý do tạm đình chỉ nên chính việc ra quyết định này ảnh hưởng đến thời hạn giải quyết án. Nếu chỉ kiểm sát trên nội dung của quyết định thì KSV khó có thể kiểm sát hết các trường hợp này, vì không thể nắm bắt hết các thông tin.
Hiện nay, công tác kiểm sát các quyết định tạm đình chỉ chưa chặt chẽ, còn khó khăn trong phát hiện kịp thời các vi phạm của TAND khi ra quyết định tạm đình chỉ, lý do tạm đình chỉ chưa phù hợp. Cụ thể: Chưa hết thời hạn chuẩn bị xét xử đã tạm đình chỉ vụ án; chưa hết thời hạn của các cơ quan, tổ chức cung cấp tài liệu, chứng cứ để giải quyết vụ án theo quy định tại các điều 105, 106 BLTTDS năm 2015 thì TAND đã ra quyết định tạm đình chỉ; (3) tạm đình chỉ theo yêu cầu của đương sự nhưng không có căn cứ.
2.3.2.5. Kiểm sát chủ thể ban hành và hình thức của quyết định đình chỉ giải quyết vụ án kinh doanh thương mại sơ thẩm
Một trong những nội dung quan trọng khi kiểm sát quyết định đình chỉ giải quyết vụ việc KDTM là kiểm sát về thẩm quyền ban hành và hình thức của quyết định đình chỉ giải quyết vụ việc KDTM. Tuy nhiên, do quy định pháp luật về thời điểm trước khi mở phiên tòa chưa rò ràng đã gây khó khăn cho KSV, KTV trong
việc xác định chủ thể có thẩm quyền ban hành và hình thức ban hành quyết định đình chỉ giải quyết vụ việc KDTM để tiến hành kiểm sát. Cụ thể:
Theo quy định tại Điều 219 BLTTDS năm 2015 thì thẩm quyền ban hành quyết định đình chỉ giải quyết vụ án KDTM tại cấp sơ thẩm được xác định như sau:
- Trước khi mở phiên tòa, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ việc KDTM có thẩm quyền ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ việc KDTM.
- Tại phiên tòa, HĐXX có thẩm quyền ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ việc KDTM.
Hiện nay, chưa có quy định trực tiếp giải thích thời điểm trước khi mở phiên tòa là thời điểm nào trong các giai đoạn giải quyết vụ án KDTM. Có quan điểm cho rằng, thời điểm trước khi mở phiên tòa là thời điểm trước khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử. Thực tiễn xét xử của TAND cũng áp dụng thống nhất thời điểm trước khi mở phiên tòa là thời điểm trước khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử. Như vậy, trước khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử, thẩm quyền ban hành quyết định đình chỉ giải quyết vụ án KDTM thuộc về Thẩm phán được phân công giải quyết vụ việc KDTM. Tương tự, tại phiên tòa ở đây được hiểu là kể từ sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử thì thẩm quyền ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ việc KDTM thuộc về HĐXX. Nếu theo quan điểm này thì quy định tại khoản 4 Điều 203 BLTTDS 2015, trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Tòa án phải mở phiên tòa. Trường hợp trong thời điểm 01 tháng này, khi có các căn cứ đình chỉ giải quyết vụ án thì TAND vẫn phải mở phiên tòa, bởi HĐXX là chủ thể có thẩm quyền ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ việc KDTM.
Khác với quan điểm trên, tác giả cho rằng, thời điểm trước khi mở phiên tòa là thời điểm trước khi phiên tòa được diễn ra. Bởi vì, khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử, việc thành lập HĐXX mới là những quyết định trên giấy tờ, còn trên thực tế, chưa có HĐXX cho đến khi phiên tòa được mở.
Từ phân tích trên cho thấy, vẫn có nhiều quan điểm khác nhau về thời điểm trước khi mở phiên tòa. Do đó, có lúc, có nơi, quan điểm về thời điểm trước khi mở phiên tòa của TAND và VKSND không thống nhất dẫn đến việc nhận định thẩm quyền ban hành và mẫu quyết định đình chỉ giải quyết vụ việc KDTM cũng không thống nhất, gây khó khăn cho quá trình kiểm sát.