17
giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV), các hội chứng sau viêm não; xoắn khuẩn: giang mai thần kinh; bệnh Lyme; bệnh Prion: bệnh Creutzfeldt - Jakob.
* Sa sút trí tuệ do bất thường cấu trúc não bộ: Tràn dịch não áp lực bình thường, máu tụ dưới màng cứng mạn tính, u não.
* Sa sút trí tuệ do nguyên nhân khác: Sa sút trí tuệ giả dạng của trầm
cảm, suy giáp, thiếu vitamin B12, các bệnh chuyển hóa.
1.1.3. Các giai đoạn của sa sút trí tuệ
Triệu chứng nổi bật nhất và xuất hiện sớm nhất là sự suy giảm trí nhớ. Bệnh tiến triển nặng dần trong vòng từ hai đến mười năm, bệnh nhân sẽ mất dần các khả năng về nhận thức và trí tuệ, sau cùng mất khả năng sống độc lập, phụ thuộc vào người khác và tử vong do các bệnh nhiễm khuẩn [177], [227].
Việc phân chia các giai đoạn của sa sút trí tuệ có vai trò rất quan trọng trong công tác nghiên cứu, đánh giá và ứng dụng các biện pháp điều trị trong công tác quản lý, chăm sóc bệnh nhân tại bệnh viện và cộng đồng [22], [35], [66], [206]. Cách phân chia giai đoạn thích hợp nhất hiện nay là dựa vào những tiêu chí như mức biểu hiện của rối loạn chức năng các nhận thức, mức ảnh hưởng tới các hoạt động sống hàng ngày và điểm thực hiện trắc nghiệm kiểm tra trạng thái tâm trí thu nhỏ của Folstein (MMSE) [103].
* Sa sút trí tuệ giai đoạn sớm (20 - 24 điểm MMSE)
Có thể bạn quan tâm!
- Đặc điểm dịch tễ học sa sút trí tuệ ở người cao tuổi tại hai quận, huyện Hà Nội - 1
- Đặc điểm dịch tễ học sa sút trí tuệ ở người cao tuổi tại hai quận, huyện Hà Nội - 2
- Các Yếu Tố Nguy Cơ Bệnh Lý Về Tim - Mạch Và Chuyển Hóa
- Cải Thiện Chất Lượng Cuộc Sống Của Bệnh Nhân Sa Sút Trí Tuệ [16], [18], [101]
- Mô Hình Trung Tâm Chăm Sóc Sức Khỏe Người Cao Tuổi Do Nhà
Xem toàn bộ 138 trang tài liệu này.
Triệu chứng nổi bật nhất là giảm trí nhớ gần hay trí nhớ ngắn hạn. Bệnh nhân thường biểu lộ thiếu sót này dưới hình thức nhắc lại một câu hỏi đã hỏi nhiều lần, thậm chí hai câu hỏi cùng một nội dung được nhắc lại chỉ cách nhau vài phút, hoặc hay đi tìm đồ dùng cá nhân vì không nhớ đã để ở đâu. Vì thế bệnh nhân thường hay có thêm hoang tưởng bị mất cắp. Tình trạng quên các từ ngữ dùng thường ngày khiến bệnh nhân phải diễn đạt theo kiểu nói vòng vo, chẳng hạn như không nhớ từ "khăn quàng", nên phải nói là một vật quấn quanh cổ áo. Các sinh hoạt thường ngày như lái xe, quản lý nhà cửa, quản lý tiền bạc cũng ngày càng trở nên khó khăn [18].
18
Thay đổi nhân cách, các rối loạn cảm xúc, sự suy giảm khả năng nhận xét và đánh giá cũng xuất hiện trong giai đoạn sớm của sa sút trí tuệ. Các rối loạn cảm xúc có thể dao động giữa hai thái cực là trạng thái trầm cảm và trạng thái hưng phấn. Bệnh nhân thường có những thay đổi tính tình như trở nên khó tính hơn trước, dễ nóng giận và dễ kích động. Trong giai đoạn sớm này, bệnh nhân thường có khả năng bù đắp những thiếu sót về trí nhớ nếu như họ được sinh hoạt trong khung cảnh gia đình đã quen thuộc; tuy nhiên các thiếu sót về nhận thức và hành vi sẽ bộc lộ dễ dàng nếu họ bị rơi vào những tình huống mới gặp.
* Sa sút trí tuệ giai đoạn trung gian (10-19 điểm MMSE)
Là giai đoạn tiếp theo trong đó bệnh nhân bắt đầu biểu lộ những biến đổi trong sinh hoạt hàng ngày như tắm rửa, mặc quần áo, vệ sinh cá nhân, cụ thể là thực hiện khó khăn hay không thực hiện được các hoạt động này như lúc bình thường.
Bệnh nhân mất hoàn toàn khả năng tiếp thu những thông tin mới, không lưu giữ được các thông tin chủ yếu về môi trường xung quanh do đó bị rối loạn định hướng nặng về không gian và thời gian. Bệnh nhân có thể không nhận biết vị trí ngay cả khi ở trong nhà mình. Bệnh nhân dễ té ngã và gặp các tai nạn trong giai đoạn này. Các rối loạn hành vi tiếp tục xuất hiện và trở nên nặng hơn. Bệnh nhân có nhiều hoang tưởng hơn, đặc biệt hoang tưởng bị ám hại do đó càng nghi kỵ người xung quanh. Các rối loạn hành vi khác cũng được gặp như hung dữ tấn công người khác, tình dục bất thường, kích động không điển hình.
* Sa sút trí tuệ giai đoạn nặng (dưới 10 điểm MMSE)
Đây là giai đoạn cuối của diễn biến bệnh trong đó bệnh nhân mất hẳn và toàn bộ các khả năng sinh hoạt thường ngày, hoàn toàn lệ thuộc vào người khác trong các hoạt động thường ngày như ăn uống, đại tiểu tiện, tắm rửa và di chuyển. Bệnh nhân mất mọi thể loại trí nhớ gần và xa, không còn nhận biết được người thân trong gia đình nữa. Do mất khả năng đi lại nên bệnh nhân
19
nằm liệt giường. Tăng nguy cơ thiếu dinh dưỡng và tăng nguy cơ viêm phổi do nuốt nhầm do bị mất các cử động mang tính phản xạ như nhai và nuốt. Sự lệ thuộc hoàn toàn vào người khác có khi đưa bệnh nhân đến tình huống phải vào nhà dưỡng lão. Các biến chứng của giai đoạn cuối là kiệt nước, thiếu dinh dưỡng, viêm phổi do nuốt nhầm và loét do tỳ đè, trong chừng mực nào đó có thể phòng ngừa được nhờ chế độ chăm sóc thật tốt. Nguyên nhân tử vong hay gặp gồm có nhiễm khuẩn đường hô hấp, tiết niệu và ngoài da.
1.1.4. Tiêu chuẩn chẩn đoán sa sút trí tuệ
* Tiêu chuẩn chẩn đoán sa sút trí tuệ theo Bảng Phân loại Quốc tế các
Bệnh tật (ICD-10) [18], [22], [43].
(1) Suy giảm trí nhớ ngắn hạn (gần) và trí nhớ dài hạn (xa).
(2) Có ít nhất một trong các bất thường sau: Suy giảm tư duy trừu tượng; suy giảm phán đoán, nhận xét; các rối loạn khác của chức năng thần kinh cao cấp; biến đổi nhân cách.
(3) Suy giảm quan hệ xã hội và nghề nghiệp do các rối loạn về trí nhớ
và trí tuệ ở trên gây ra.
(4) Không xuất hiện trong bối cảnh đang bị mê sảng.
(5) Có sự hiện diện của các yếu tố sau đây:
- Có bằng chứng về bất thường thực thể đã gây ra những suy giảm về
trí tuệ và suy giảm về chức năng trí tuệ.
Các suy giảm về trí nhớ và chức năng trí tuệ không là hệ quả của một
bệnh tâm thần khác.
* Tiêu chuẩn chẩn đoán sa sút trí tuệ theo Sách Thống kê Chẩn đoán
các Rối loạn tâm thần (DSM-IV) [22], [43].
(1) Suy giảm trí nhớ (mất khả năng thu nhận các thông tin mới và mất khả năng nhớ lại các thông tin vừa mới tiếp nhận).
(2) Có ít nhất một trong các rối loạn nhận thức sau đây:
- Mất ngôn ngữ (không diễn đạt được, không hiểu được).
- Mất vận động hữu ý (không thực hiện được các động tác có được do
huấn luyện, mặc dù không bị liệt).
- Mất nhận thức (mất khả năng nhận biết đồ vật, mặc dù chức năng giác
quan vẫn bình thường).
- Rối loạn chức năng tiến hành các kế hoạch (ví dụ: Lập kế hoạch, tổ
chức, phân chia giai đoạn, trừu tượng hoá).
(3) Các suy giảm ở (l) và (2) gây cản trở lớn cho sinh hoạt thường ngày và giao tiếp xã hội và tình trạng này ngày càng nặng dần.
(4) Các suy giảm trí nhớ và nhận thức xảy đến trong bối cảnh bệnh
nhân không bị mê sảng.
(5) Không có sự hiện diện của các bệnh khác vốn có có thể gây ra rối loạn nhận thức (ví dụ: Tâm thần phân liệt, trầm cảm).
1.2. Tình hình nghiên cứu sa sút trí tuệ trên thế giới
Theo kết quả dự báo của Nghiên cứu Delphi [101], hiện tại trên toàn thế giới có khoảng 24,3 triệu người mắc sa sút trí tuệ, mỗi năm có thêm 4,6 triệu trường hợp mắc mới. Theo dự báo, cứ hai mươi năm, số người mắc sa sút trí tuệ sẽ tăng lên gấp đôi và như vậy đến năm 2040 ước sẽ có 81,1 triệu người mắc sa sút trí tuệ. Hầu hết số người này sống ở các nước đang phát triển (khoảng 60% năm 2001 và sẽ tăng lên 71% vào năm 2040). Tốc độ tăng không giống nhau, trong khi ở châu Âu trong khoảng thời gian 2001-2040 chỉ tăng 100%, thì một số vùng, ví dụ như Ấn Độ sẽ tăng trên 300%.
Một phân tích dự báo khác của Trung tâm Nghiên cứu Lão khoa tại Viện Karolinska, Thụy Điển [19], [141] cũng cho kết quả tương tự: Năm 2000, trên thế giới có 25 triệu người mắc sa sút trí tuệ, trong đó 46% sống ở châu Á, 30% ở châu Âu và 12% ở Bắc Mỹ, 2% sống ở các nước kém phát triển. Tỷ lệ mắc toàn bộ sa sút trí tuệ ở người trên 65 tuổi là 5,1% (chiếm khoảng 0,5% tổng dân số). Số trường hợp mắc mới sa sút trí tuệ năm 2000 là 4,6 triệu người. Nghiên cứu cũng dự báo số người già mắc sa sút trí tuệ sẽ tăng từ 25 triệu người năm 2000 lên 63 triệu năm 2030 (41 triệu ở các nước đang phát triển) và 114 triệu năm 2050 (84 triệu ở các nước đang phát triển).
Ở Nhật Bản, Yamada M. và cộng sự [233] nghiên cứu trên 637 nam và
1.585 nữ từ 60 tuổi trở lên trong khuôn khổ Nghiên cứu Sức khoẻ người trưởng thành (Adult Health Study/AHS) tại Hiroshima và Nagasaki. Chẩn đoán sa sút trí tuệ sử dụng tiêu chuẩn DSM III/R. Kết quả cho thấy tỷ lệ hiện mắc sa sút trí tuệ là 7,2%. Tỷ lệ bệnh Alzheimer là 2% ở nam giới và 3,8% ở nữ giới. Tỷ lệ sa sút trí tuệ do mạch máu là 2% ở nam giới và 1,8% ở nữ giới.
Ở Hoa Kỳ, một nghiên cứu tiến cứu được tiến hành từ năm 1994 [78],
[146] trên các đối tượng là những người trên 65 tuổi sống tại cộng đồng, không mắc sa sút trí tuệ. Khám định kỳ được tiến hành hai năm một lần. Kết quả cho thấy tỷ lệ mới mắc của bệnh Alzheimer là 0,28% (nhóm tuổi 65-69) tăng lên 5,61% (nhóm tuổi trên 90). Tỷ lệ mới mắc của bệnh Alzheimer tăng lên gần gấp ba ở nhóm tuổi 80-84 so với nhóm tuổi 75-79. Không có sự khác nhau về giới tại thời điểm khởi phát bệnh. Học vấn càng cao thì liên quan mắc bệnh Alzheimer càng giảm.
Ở Pháp, nghiên cứu thuần tập PAQUID [91] ở 1.461 người trên 75 tuổi cho thấy 17,8% đối tượng mắc sa sút trí tuệ, 38,5% số này sống trong các trung tâm dưỡng lão. Bệnh Alzheimer là nguyên nhân chủ yếu của sa sút trí tuệ, chiếm 79,6%.
Ở Italia, Prencipe M. và cộng sự [182] đã nghiên cứu 1.147 người trên 65 tuổi cho thấy tỷ lệ hiện mắc sa sút trí tuệ là 8% và suy giảm nhận thức nhẹ là 27,3%. Không có sự khác biệt giữa nam và nữ. Bệnh Alzheimer chiếm 64%, sa sút trí tuệ do mạch máu chiếm 27% và các thể sa sút trí tuệ khác là 9%. Những người học vấn thấp có tỷ lệ mắc bệnh cao hơn những người học vấn cao.
Ở Hà Lan, nghiên cứu trên 7.528 người từ 55 đến 106 tuổi [116], [140] thấy tỷ lệ hiện mắc sa sút trí tuệ là 6,3%. Tỷ lệ này thay đổi từ 0,4% ở nhóm tuổi 55-59 lên 43,2% ở nhóm tuổi trên 95. Trong đó bệnh Alzheimer chiếm tới 72%; sa sút trí tuệ do mạch máu chỉ chiếm 16%; sa sút trí tuệ ở bệnh nhân Parkinson là 30,6%; sa sút trí tuệ khác là 24,5%.
22
Ở Ấn Độ, các tác giả [101] đã tiến hành nghiên cứu 750 người trên 60 tuổi sống tại cộng đồng ngoại ô thành phố Madras, miền Nam Ấn Độ. Các tác giả sử dụng thang điểm đánh giá trạng thái tâm trí MSS (Mental State Schedule). Kết quả cho thấy tỷ lệ hiện mắc sa sút trí tuệ là 3,5%. Tỷ lệ này tăng rõ rệt theo tuổi, được đánh giá là cao hơn các vùng thành thị.
Ở Trung Quốc, Zhang My và cộng sự [235] nghiên cứu 5.055 người trên 65 tuổi tại Thượng Hải cho thấy tỷ lệ hiện mắc sa sút trí tuệ là 4,6%, bệnh Alzheimer chiếm 65%. Tuổi cao, giới nữ và học vấn thấp là các yếu tố nguy cơ độc lập của sa sút trí tuệ. Một nghiên cứu khác của Wang W và cộng sự [220] tiến hành tại một vùng nông thôn Bắc Kinh trên 5.003 người trên 60 tuổi cho thấy tỷ lệ mắc toàn bộ sa sút trí tuệ là 2,68%; Tỷ lệ này là 3,49% ở nhóm trên 65 tuổi. Tỷ lệ sa sút trí tuệ do mạch máu là 1,37% và sa sút trí tuệ khác (kể cả thể hỗn hợp) là 0,27%. Tỷ lệ mắc sa sút trí tuệ nói chung và bệnh Alzheimer nói riêng tăng theo tuổi, nữ giới mắc nhiều hơn nam, nhưng sự khác biệt không rõ với sa sút trí tuệ do mạch máu.
Ở Hàn Quốc, Woo JI và cộng sự [230] đã tiến hành một nghiên cứu cắt ngang tại Yonchon. 1.674 người trên 65 tuổi được sàng lọc bằng thang điểm MMSE-K. Kết quả cho thấy tỷ lệ hiện mắc sa sút trí tuệ là 9,5% (8,8% ở nam và 9,9% ở nữ); bệnh Alzheimer là 3,2% ở nam và 5,3% ở nữ, sa sút trí tuệ do mạch máu tương ứng là 3,1% và 2,1%. Sử dụng tiêu chuẩn DSM-III/R cho thấy tỷ lệ mắc bệnh Alzheimer nhẹ, vừa và nặng lần lượt là 3,4%, 0,7% và 0,5%.
1.3. Tình hình nghiên cứu sa sút trí tuệ tại Việt Nam
Năm 2001, Viện Sức khỏe Tâm thần Quốc gia đã tiến hành nghiên cứu một quần thể gồm 8.965 người thuộc hai phường của thành phố Thái Nguyên, trong đó có 727 người trên 60 tuổi. Kết quả cho biết tỷ lệ hiện mắc sa sút trí tuệ ở người cao tuổi là 7,9%, tỷ lệ này tăng rõ rệt theo tuổi (4,2%, 10,6%, 16,6% tương ứng với các nhóm tuổi 60-69, 70-79, và trên 80 tuổi [52].
Ở Việt Nam, cho đến thời điểm hiện tại các nghiên cứu chuyên sâu về sa sút trí tuệ còn ít. Năm 2005, Bệnh viện Lão khoa Trung ương thành lập Đơn vị nghiên cứu về trí nhớ và sa sút trí tuệ với nhiệm vụ trọng tâm là nghiên cứu đặc điểm sa sút trí tuệ ở Việt Nam, biện pháp điều trị và quản lý bệnh nhân.
Nghiên cứu tỷ lệ hiện mắc và một số yếu tố nguy cơ đến sa sút trí tuệ ở người cao tuổi tại huyện Ba Vì (Hà Nội), Phạm Thắng và cộng sự cho thấy tỷ lệ hiện mắc điểm sa sút trí tuệ ở người cao tuổi trên 60 tuổi là 4,63% [18]; tỷ lệ hiện mắc suy giảm nhận thức nhẹ là 1,4% [12].
Nguyễn Thanh Vân, Phạm Thắng, Lê Quang Cường, Tạ Thành Văn nghiên cứu lâm sàng cho thấy tỷ lệ sa sút trí tuệ sau nhồi máu não chiếm 12,3% [50], suy giảm nhận thức nhẹ sau nhồi máu não là 47% [49].
Phạm Thắng và cộng sự [48] ứng dụng trắc nghiệm năm từ trong khám sàng lọc suy giảm nhận thức ở Hải Dương cho biết tỷ lệ giảm trí nhớ của người cao tuổi ở phường Ngọc châu (Hải Dương) là 23,1%, nam cao hơn nữ và tỷ lệ thuận theo tuổi.
Đánh giá chức năng nhận thức ở người cao tuổi Việt Nam trên 60 tuổi bằng một số trắc nghiệm thần kinh - tâm lý, Phạm Thắng và cộng sự [2], [36] cho thấy điểm trung bình của trắc nghiệm trí nhớ hình tăng theo học vấn, giảm theo tuổi.
Nghiên cứu về rối loạn nhận thức ở bệnh nhân mắc bệnh Parkinson tại Viện Lão khoa Quốc gia, Phạm Thắng và cộng sự cho kết quả: Tỷ lệ rối loạn nhận thức chiếm 41,86% các bệnh nhân mắc bệnh Parkinson, trong đó 88,9% mắc sa sút trí tuệ và 11,1% mắc suy giảm nhận thức nhẹ [19].
Tóm lại, ở trong nước, cho đến thời điểm hiện tại, ngoài một vài nghiên cứu lâm sàng bệnh Alzheimer nêu trên chưa có nhiều các số liệu về dịch tễ học sa sút trí tuệ [18], [27].
1.4. Các yếu tố nguy cơ của sa sút trí tuệ
1.4.1. Các yếu tố cá nhân, gia đình, tâm lý-xã hội và nếp sống
- Các yếu tố thuộc cá nhân và gia đình như: tuổi, giới tính, tiền sử gia đình có người mắc sa sút trí tuệ đã được rất nhiều nghiên cứu tìm ra mối liên quan với sa sút trí tuệ [212].
+ Tuổi: sa sút trí tuệ có thể xảy ra ở bất kỳ tuổi nào nhưng hiếm gặp ở tuổi dưới 60. Người cao tuổi càng nhiều tuổi thì khả năng mắc sa sút trí tuệ càng cao. Sa sút trí tuệ tăng gấp đôi sau mỗi độ 5 năm ở lứa tuổi trên 60. Tỷ lệ bệnh ở người từ 65 tuổi trở lên là khoảng 5 đến 10%; trên 80 tuổi là 20% và trên 90 tuổi có thể đến 47%. Người ta chưa chứng minh được nguyên nhân của sự tăng tỷ lệ đó là do lão hóa não hay vì những bệnh và những sự kiện phổ biến ở tuổi già [35], [212]. Các nghiên cứu cũng chỉ ra rằng tỷ lệ mắc sa sút trí tuệ ở nữ giới cao hơn nam giới [52], [212]. Điều này được giải thích là do nữ giới có tuổi thọ cao hơn nam giới nên nguy cơ mắc bệnh cũng cao hơn. Nghiên cứu ở Nhật Bản cho thấy bệnh Alzheimer gặp nhiều ở nữ giới, còn sa sút trí tuệ mạch máu gặp nhiều ở nam giới [106].
+ Về mối liên quan với tiền sử gia đình, người ta nhận thấy tỷ lệ mắc bệnh cao hơn ở những người có họ hàng gần với người mắc sa sút trí tuệ. Hiệp hội nghiên cứu bệnh Azheimer đã báo cáo rằng những người mắc hội chứng Down có tỷ lệ tiến triển bệnh ở tuổi trung niên cao hơn. Điều này có thể do sự khác biệt về gien. Một số nghiên cứu tìm ra một số tiền liên quan trên nhiễm sắc thể 1, 14, 21 [23], [106], [131]. Con có bố hoặc mẹ mang gien đột biến có khoảng 50% nguy cơ khởi phát bệnh Azheimer sớm. Tuy nhiên vẫn chưa có một đáp án chính xác về mối liên quan này.
+ Các yếu tố tiền sử bệnh tật: Một số nghiên cứu đã tìm ra yếu tố nguy cơ của sa sút trí tuệ là đái tháo đường, tăng huyết áp, tai biến mạch não, chấn thương sọ não, bệnh Parkinson... [106], [131]. Các nghiên cứu cho thấy xấp xỉ 1/3 những người sống sót đến tháng thứ ba sau tai biến mạch não mắc sa sút trí tuệ [54]; tỷ lệ mắc sa sút trí tuệ cao hơn ở những người có tiền sử bị chấn