- Người bảo lãnh: Ngân hàng cam kết trả nợ cho khách hàng khi khách hàng mất khả năng thanh toán (phát hành thư tín dụng).
- Đại lý: Thay mặt khách hàng quản lý và bảo vệ tài sản cho họ, phát hành và chuộc lại chứng khoán.
1.1.5.2. Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại
Nhìn chung các hoạt động cơ bản của NHTM đều hướng tới mục tiêu tối cao, chi phối các hoạt động khác đó là tối thiểu hoá chi phí, tối đa hoá lợi nhuận và đạt được mục tiêu an toàn. Về cơ bản một NHTM thường xuyên thực hiện các hoạt động chính sau:
- Huy động vốn: Đây là hoạt động tiền đề có ý nghĩa đối với bản thân ngân hàng cũng như đối với xã hội. Trong hoạt động nay NHTM được phép sử dụng những biện pháp và công cụ cần thiết mà pháp luật cho phép để huy động các nguồn tiền nhàn rỗi trong xã hội, làm nguồn vốn tín dụng để cho vay đối với nền kinh tế. Kết quả của hoạt động huy động vốn là tạo ra nguồn vốn để đáp ứng các nhu cầu của nền kinh tế.
- Hoạt động sử dụng vốn: Là việc ngân hàng sử dụng vốn của mình và các nguồn vốn ổn định khác để cho vay đối với các chủ thể kinh tế và thực hiện đầu tư. Đây là hoạt động quan trọng nhất quyết định đến khả năng tồn tại và phát triển của NHTM.
- Ngân hàng thực hiện các hoạt động kinh doanh dịch vụ ngân hàng: NHững dịch vụ ngân hàng ngày càng phát triển vừa cho phép hỗ trợ đáng kể cho nghiệp vụ khai thác nguồn vốn, mở rộng các nghiệp vụ đầu tư, vừa tạo ra thu nhập cho ngân hàng bằng các khoản tiền hoa hồng, lệ phí… Các hoạt động này gồm: Các dịch vụ thanh toán; thu, chi hộ khách hàng; Nhận bảo quản các tài sản giấy tờ có giá; Kinh doanh mua bán ngoại tệ, vàng bạc, đá quý; Tư vấn tài chính…
1.2. Yêu cầu đánh giá kỹ năng tác nghiệp của nhà báo về ngân hàng
Cùng với sự phát triển của đất nước trong thời kỳ đổi mới, hội nhập và phát triển, thông tin kinh tế, tài chính – ngân hàng ngày càng chiếm thị phần lớn trên các trang báo điện tử, trong đó những thông tin về ngân hàng đã thu hút được sự quan tâm của đông đảo dư luận xã hội. Để ngày càng khẳng định vai trò, vị trí và năng
lực bản thân, nhà báo luôn phải học hỏi, trau dồi trình độ nghiệp vụ và kiến thức chuyên sâu về tài chính - ngân hàng để tác phẩm do mình tạo ra luôn đáp ứng yêu cầu ngày càng khắt khe của công chúng. Đặc biệt khi tác nghiệp về những vấn đề liên quan đến ngân hàng, nhà báo cần lưu ý một số yêu cầu sau:
Có thể bạn quan tâm!
- Ý Nghĩa Khoa Học, Thực Tiễn Của Vấn Đề Nghiên Cứu
- Kỹ Năng Và Kỹ Năng Tác Nghiệp Của Nhà Báo Về Ngân Hàng
- Những Phẩm Chất Cần Thiết Của Nhà Báo Kinh Tế
- Hoàn Chỉnh Tác Phẩm, Phát Hành Và Tiếp Nhận Phản Hồi, Xử Lý
- Từng Bước Hoàn Thiện Kỹ Năng Tác Nghiệp Của Nhà Báo
- Việc Tiếp Nhận Và Xử Lý Thông Tin Còn Hạn Chế
Xem toàn bộ 168 trang tài liệu này.
1.2.1. Yêu cầu đánh giá về quy trình tác nghiệp
Quy trình tác nghiệp của nhà báo hiện nay bao gồm các công đoạn sau:
Đề nghị cung cấp thông tin: Trước khi đề nghị cung cấp thông tin, nhà báo cần phải nêu được lý do, mục đích của việc sử dụng thông tin. Những thông tin này có thể được công khai mà chưa từng được công khai hoặc đó không thuộc những dữ liệu thông tin bí mật quốc gia, nhà báo có thể đặt vấn đề và yêu cầu các cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức và cá nhân có thẩm quyền cung cấp thông tin mà cơ quan, cá nhân đó phụ trách. Căn cứ vào Luật Báo chí thì cơ quan được đề nghị cung cấp thông tin và người có trách nhiệm cung cấp thông tin sẽ trả lời phỏng vấn hoặc cung cấp thông tin theo các hình thức khác mà nhà báo yêu cầu như: thông tin, dữ liệu được chứa đựng trong văn bản, hồ sơ, tài liệu có sẵn, tồn tại dưới dạng bản viết, bản điện tử, tranh, ảnh, bản vẽ, băng, đĩa, bản ghi hình, ghi âm hoặc các dạng khác được người có thẩm quyền của cơ quan nhà nước đó ký, đóng dấu.
Hiện nay nhà báo có khá nhiều nguồn để tiếp cận và khai thác thông tin liên quan đến lĩnh vực ngân hàng:
Một là, thông qua các cơ quan QLNN: Các cơ quan QLNN mà nhà báo có thể đề nghị cung cấp thông tin có thể là Thủ tướng Chính phủ, ý kiến của các đại biểu Quốc hội, Thống đốc NHNN Việt Nam, đại diện lãnh đạo NHNN của 63 tỉnh thành phố trên cả nước. Đó cũng có thể là đại diện lãnh đạo các đơn vị Vụ, Cục thanh tra giám sát NHNN, cơ quan quản lý tài sản của TCTD (VAMC)…
Hai là, thông qua NHTM: Theo quan điểm từ nguồn này nhà báo có thể tiếp xúc và phỏng vấn đại diện ngân hàng TMCP, ngân hàng liên doanh, ngân hàng vốn nước ngoài, Quỹ tín dụng nhân dân, các công ty tài chính, các TCTD hợp tác…
Ba là, thông qua giới Chuyên gia kinh tế: Đây là giới chuyên gia kinh tế - tài chính chuyên theo dòi và nghiên cứu các vấn đề cả vĩ mô và vi mô liên quan mọi
mặt hoạt động lĩnh vực ngân hàng. Họ chuyên theo dòi và đưa ra những nhận định sâu sắc những vấn đề liên quan đến sự lưu thông của nền kinh tế.
Bốn là, ngoài các nguồn tin trên, nhà báo có thể thông qua các nguồn tin khác như ý kiến của người dân; sự phản ánh của các doanh nghiệp; các nhà nghiên cứu hoặc là những đúc kết kinh nghiệm của chính bản thân nhà báo.
Phạm vi cung cấp thông tin: Căn cứ vào chức năng, quyền hạn và nghĩa vụ của mỗi đơn vị, tổ chức, cá nhân (gọi chung là nguồn tin) có trách nhiệm mà nhà báo yêu cầu cung cấp thông tin trong phạm vi đơn vị quản lý. Nguồn tin không được phép cố ý cung cấp thông tin sai lệch, không đầy đủ, trì hoãn việc cung cấp thông tin; làm giả thông tin. Người yêu cầu cung cấp thông tin; làm giả thông tin. Người yêu cầu cung cấp thông tin luôn phải được tôn trọng và tạo điều kiện thuận lợi khi lấy tin.
Xử lý dữ liệu và truyền thông: Nhà báo phải đảm bảo thu thập đầy đủ các dữ liệu. Kiểm tra, đối chiếu lại với bên cung cấp thông tin khi phát hiện các dữ liệu có hoài nghi. Khi truyền thông, nhà báo cần biết cách tổng hợp và chắt lọc thông tin, xác định những thông tin có thể cung cấp ra công chúng, những thông tin phải tuyệt đối giữ bí mật cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Một mặt, nhà báo cần nỗ lực phản ánh càng nhiều thông tin càng tốt, nhưng mặt khác không nên gây tác động xấu đến hình ảnh của đối tượng.
1.2.2. Yêu cầu đánh giá về nội dung tác phẩm
Một tác phẩm báo chí, cho dù chỉ là một tin vắn vài chục chữ hay một bài phóng sự dài và được thể hiện dưới bất kỳ hình thức nào (text, ảnh, audio, video, đồ hoạ…) đều nhằm mục đích phản ánh chân thực, khách quan những sự kiện, vấn đề, sự việc có thực xảy ra trong cuộc sống hàng ngày, thể hiện tính thời sự, có ý nghĩa xã hội và luôn luôn được công chúng quan tâm, theo dòi. Để đạt được các yêu cầu nêu trên, một tác phẩm báo chí bao giờ cũng cần phải đáp ứng được các yêu cầu cơ bản chung như sau:
Về mặt nội dung: Nội dung của tác phẩm báo chí phải đảm bảo được những yêu cầu về nội dung phải mang ý nghĩa và tính định hướng rò ràng. Trong đó, tiêu
đề cũng là một loại nội dung đặc biệt của tác phẩm báo chí. Nó là sự biểu đạt cô đọng nội dung, thể hiện bản chất, tư tưởng của tác phẩm, là yếu tố tiếp xúc đầu tiên giữa tác phẩm với công chúng. Việc đặt đầu đề có tính quyết định số phận của bài báo, nó là yếu tố đầu tiên thu hút sự quan tâm của người đọc để họ tự quyết định xem có cần phải đọc cả nội dung bài nào đó hay không? Ngoài ra, nội dung của tác phẩm báo chí phải đảm bảo:
+ Tính thời sự: Tức là thông tin phải đáp ứng kịp thời về những cái mới. Đó là những sự việc, sự kiện, con người, hoàn cảnh, tình huống vừa xảy ra, đang xảy ra, chắc chắn sẽ xảy ra, Nhà báo cung cấp cho công chúng thông tin về những sự thật của đời sống xã hội nói chung. Ngoài ra, khi tác nghiệp về ngân hàng, một ngành kinh tế với nhiều vấn đề có tính chất đặc thù riêng, nhà báo phải lựa chọn cho mình những tiêu chí đánh giá cụ thể hơn, xác thực hơn và nhóm vào từng nhóm đối tượng nhất định. Bên cạnh đó, nhà báo phải biết cách xác định thời điểm tiến hành khai thác và phản ánh thông tin sao cho hiệu quả và chính xác, có như vậy mới đáp ứng tốt nhất đòi hỏi về tính thời sự của tác phẩm.
+ Tính xác thực: Nhà báo phải phản ánh một cách chính xác, có địa điểm, có nhân chứng và thời gian, không gian cụ thể. Tuyệt đối không được bịa đặt hoặc thêm bớt một cách tuỳ tiện trong quá trình thông tin về sự thật. Yêu cầu này vô cùng quan trọng vì ngay cả một nhà báo kinh nghiệm, để đảm bảo chính xác, họ thường xuyên phải thận trọng và kiểm chứng tất cả các thông tin từ tên nhân vật, chức danh, đến việc kiểm tra thông tin, con số, dữ liệu. Kiểm chứng thông tin, kiểm tra lại nguồn tin là thao tác cần thiết để đảm bảo những gì phóng viên thu nhận được là chính xác. Đối với nhà báo kinh tế, khi tác nghiệp về ngân hàng càng phải cẩn trọng hơn hết, vì thế nhà báo cần đề ra cho mình một số tiêu chí đánh giá riêng, sao cho vừa đảm bảo tính khách quan, trung thực, vừa thể hiện tính an toàn hệ thống thông tin kinh tế, tránh gây ảnh hưởng đến an ninh kinh tế, chính trị. Tính định hướng trực tiếp của những thông tin mà nó phản ánh: Tác giả phải thể hiện một thái độ và lập trường rò ràng trong bài viết. Lập trường này dựa trên cơ sở là pháp luật, đạo đức, truyền thông….của cộng đồng.
Về mặt hình thức: Kết cấu phải đảm bảo các yếu tố ngắn gọn, phù hợp với nội dung của từng thể loại báo chí; kết cấu gắn liền với sự thật, ngôn ngữ gần gũi với đời sống, đơn giản, chính xác và dễ hiểu. Tuy nhiên, ở một số trường hợp cần thiết, nhà báo cần phải thể hiện lối phân tích, diễn tả bài bản theo một hệ thống tổng thể hoàn chỉnh. Nhà báo có thể sử dụng ngôn ngữ chuyên ngành để lột tả vấn đề một cách hiệu quả nhất.
Ngoài các yếu tố trên, để đảm bảo phát huy hiệu quả của hoạt động báo chí, thân thiện với các công cụ tìm kiếm, đối với các báo điện tử cần được sử dụng các kỹ thuật SEO (tối ưu hoá công cụ tìm kiếm), với các đặc thù như là: Tiêu đề, sapo, mỗi đoạn, chú thích cho ảnh… phải chứa từ khoá của chủ đề bài viết. Có backlink IN và OUT, trong site link ra và ngoài site link vào. Nhóm các tin bài liên quan. Sử dụng kỹ thuật anchor text (neo văn bản). Có text thay thế cho ảnh (khi ảnh không load được) và chú thích ảnh chứa từ khoá của bài. Đặt tên file ảnh chứa từ khoá và có nghĩa. Kích thước ảnh giảm thiểu để load trang dễ dàng (nhưng vẫn đảm bảo chất lượng).
Nhằm không ngừng nâng cao kỹ năng tác nghiệp, nhà báo bên cạnh việc nắm chắc các yêu cầu trên, còn phải tích cực chủ động bồi dưỡng và hoàn thiện hơn nữa các kỹ năng báo chí mới, để đảm bảo tác phẩm báo chí ngày càng đáp ứng tốt nhất nhu cầu phát triển của công nghệ hiện đại.
1.3. Quy trình tác nghiệp của nhà báo về đề tài kỹ năng tác nghiệp của nhà báo về ngân hàng trên báo điện tử
Để thông tin mang tính khách quan, trung thực, đầy đủ và kịp thời thì bản thân nhà báo ngoài những kiến thức về chuyên môn nghiệp vụ về báo chí, đòi hỏi phải nắm vững một số thông tin thuộc lĩnh vực hoạt động tài chính ngân hàng, đặc biệt cần hiểu sâu thông tin về ngân hàng. Nhà báo cần tìm đến nguồn cung cấp thông tin uy tín và trách nhiệm, từ đó tiến hành khai thác và truyền thông một cách rộng rãi. Khác với các lĩnh vực như: văn hoá, giải trí, văn học nghệ thuật…khi tác nghiệp trong lĩnh vực ngân hàng nhà báo cần phải thận trọng trích dẫn nguồn tin và người phát ngôn ra chính thông tin đó theo đúng thẩm quyền, đúng chức năng của
họ. Tuy chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào quy định cụ thể về quy trình tác nghiệp của nhà báo về ngân hàng, nhưng nền tảng cơ bản nhất để nhà báo tiếp cận thông tin về ngân hàng vẫn chủ yếu dựa trên các quyền cơ bản được quy định trong Hiến pháp, Luật Báo chí, cũng giống như các bước trong quy trình nghiệp vụ báo chí quy định về việc khai thác thông tin và quy chế cung cấp thông tin cho báo chí hiện nay. Do đó, có thể nói quy trình tác nghiệp của nhà báo về ngân hàng trên báo điện tử hiện nay vẫn bao gồm các bước sau:
1.3.1. Nghiên cứu thực tế, phát hiện đề tài
Nguồn tin đóng vai trò quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của hoạt động báo chí. Nguồn tin trong lĩnh vực báo chí là phạm vi đời sống thực hiện được phản ánh vào các tác phẩm báo chí. Việc tìm ra một đề tài hay là yếu tố rất quan trọng làm nên sự thành công của bài báo. Tuy nhiên, với tính chất đặc trưng trong lĩnh vực thông tin tài chính, đặc biệt là thông tin về ngân hàng thì việc nghiên cứu thực tế, phát hiện nguồn tin là vấn đề không đơn giản. Bởi mọi hoạt động kinh doanh tài chính đang diễn ra ngay trước mắt chúng ta chỉ là bề nổi, để có thể tìm hiểu những vấn đề ẩn sâu bên trong thì đòi hỏi nhà báo, người viết phải biết xác định nguồn tin để tìm hiểu, khai thác đề tài đó.
Dưới góc độ luật pháp, vấn đề nguồn tin cung cấp cho báo chí luôn được điều chỉnh cho phù hợp với từng giai đoạn phát triển xã hội: Luật Báo chí năm 1989; Luật Báo chí sửa đổi năm 1999; Nghị định 51/NĐ-CP 2002 quy định chi tiết thi hành Luật Báo chí, Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Báo chí; Nghị định 90/2013/NĐ-CP quy định trách nhiệm giải trình của CQNN trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao; Quyết định 25/2013/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về Quy chế phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí… Đây là một trong những cơ sở, hành lang pháp lý căn bản giúp nhà báo xác định được nguồn tin trong quá trình tác nghiệp của mình, cũng như những công cụ để nhà báo điều chỉnh hành vi của mình trong quá trình tương tác với nguồn tin.
Đối với lĩnh vực ngân hàng hiện nay, khi mà các TCTD không ngừng phát triển lớn mạnh, kèm theo đó là hàng loạt vấn đề nảy sinh. Những biến động về tình
hình đầu tư tài chính, hoạt động dịch vụ kinh doanh, dịch vụ cung ứng vốn cho khách hàng…bên cạnh những điều kiện thuận lợi, còn tiềm ẩn vô vàn nguy cơ rủi ro, khó khăn thách thức. Điều quan trọng là nhà báo có thể dấn thân để tìm hiểu, khai thác đề tài một cách khách quan, toàn diện đầy đủ được hay không. Có thể cùng một sự kiện, nhưng nhà báo cần biết cách khai thác làm nổi bật những điểm khác biệt trong tác phẩm của mình với những tác phẩm báo chí khác. Hoặc có thể là những vấn đề không mới nhưng quan trọng là thể hiện được góc độ tiếp cận mới và viết về nó bằng một cách nhìn mới. Do đó, việc nghiên cứu và xác định đề tài là bước đi đầu tiên trong quá trình hình thành tác phẩm báo chí.
1.3.2. Tiếp cận, thu thập và khai thác thông tin
Đây là bước tiếp theo sau khi xác định được nguồn tin thì nhà báo phải tiến hành tiếp cận nguồn tin để thu thập và khai thác dữ liệu một cách kịp thời, đầy đủ và chính xác nhất. Việc tiếp cận nguồn thông tin đã được đưa vào nhóm quyền dân sự, chính trị, là quyền cơ bản của con người, được pháp luật các quốc gia và cộng đồng quốc tế công nhận. Điều 19, Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966 khẳng định quyền tiếp cận thông tin của cá nhân: “Mọi người có quyền tự do ngôn luận. Quyền này bao gồm tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền đạt mọi thông tin, ý kiến, không phân biệt lĩnh vực, hình thức tuyên truyền bằng miệng, bằng bảng viết hoặc dưới hình thức nghệ thuật, thông qua bất kỳ phương tiện thông tin đại chúng nào tuỳ theo sự lựa chọn của họ”.
Trong pháp luật Việt Nam, quyền được tiếp cận thông tin đã được ghi nhận trong các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ngày 27/6/1991, đảm bảo quyền được thông tin của công dân là một trong những định hướng lớn của Đảng ta: “Bảo đảm quyền được thông tin, quyền tự do sáng tạo của công dân. Phát triển các phương tiện thông tin đại chúng, thông tin đa dạng, nhiều chiều, kịp thời, chân thực và bổ ích”. Đường lối chủ trương nay của Đảng đã được thể chế hoá trong các văn bản pháp luật. Quyền tiếp cận thông tin của công dân là quyền hiến định, được pháp luật ghi nhận đầy đủ và rò ràng.
Luật Báo chí hiện hành (Điều 38) quy định rò trong phạm vi quyền hạn, nhiệm vụ của mình, các cơ quan, tổ chức, người có trách nhiệm có quyền và nghĩa vụ cung cấp thông tin cho báo chí và chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung thông tin đã cung cấp. Việc cung cấp thông tin cho báo chí có thể bằng văn bản, trên trang thông tin điện tử tổng hợp, họp báo, trả lời phỏng vấn và các hình thức khác. Cơ quan báo chí phải sử dụng chuẩn xác nội dung thông tin được cung cấp và phải nêu rò xuất xứ nguồn tin. Bên cạnh đó, thời hạn và trách nhiệm trả lời phỏng vấn của người được phỏng vấn trên báo chí cũng được quy định rò tại Điều 39 của Luật Báo chí năm 2016. Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày được nhận yêu cầu của người đứng đầu cơ quan báo chí, cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm trả lời trên báo chí…
Nhìn chung, quyền tiếp cận thông tin của cơ quan báo chí đã được quy định tương đối đầy đủ, rò ràng trong các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện quyền tiếp cận thông tin của nhà báo, của cơ quan báo chí trên thực tế hiện nay gặp rất nhiều khó khăn. Đặc biệt là thông tin về ngân hàng, đây không chỉ thuộc thông tin chuyên ngành mà còn là những thông tin mang tính nhạy cảm. Những thông tin nay, đôi khi các cơ quan báo chí cũng khó có thể tiếp cận khai thác một cách kịp thời và chính xác. Có khi chỉ vì một vài lý do nào đó mà các nhà quản lý thông tin chỉ cung cấp một phần hay một góc độ thông tin hạn chế, chứ không cung cấp toàn bộ thông tin cho nhà báo. Bên cạnh đó, nhà báo đôi khi do hạn chế về kinh nghiệm khai thác nguồn tin, hoặc chưa nắm rò những vấn đề cần khai thác dẫn đến việc thiếu hụt về nguồn tin. Việc thiếu thông tin cần thiết và đầy đủ về lĩnh vực này sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả truyền thông về ngân hàng, từ đó ảnh hưởng đến việc tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, cũng như các chức năng quản lý nhà nước về hoạt động ngân hàng.
Để khắc phục những hạn chế về mặt khai thác nguồn tin, nhà báo có thể tiếp cận thu thập và khai thác thông tin từ nhiều nguồn khác nhau:
Nguồn tin trực tiếp: Nhà báo có thể trực tiếp và khai thác thông tin từ nguồn do Chính phủ cung cấp, các cơ quan bộ, cơ quan hành chính, quản lý nhà nước, các