Kinh tế học vi mô - ĐH SPKT Nam Định - 25

MC

D

D1

D2

P


P = P1+ P2

Định giá

P

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 215 trang tài liệu này.

vượt mức

1

Kinh tế học vi mô - ĐH SPKT Nam Định - 25


P2


O

Q Q*


Q

Lượng hàng hoá công cộng


Hình 7.7. Hàng hoá công cộng thuần tuý A

Giả định có hai người. Đường cầu của người thứ nhất là D1. Mỗi điểm trên đường này cho thấy cá nhân đó phải trả bao nhiêu cho đơn vị cuối cùng của loại hàng hóa A. Nó cho biết lợi ích biên đối với cá nhân đó. D2 cho thấy lợi ích biên của người thứ hai.

Đường D cho thấy lợi ích biên của xã hội: Do hàng hoá công cộng A, ở mỗi mức sản lượng của loại hàng hóa công cộng đó, ta cộng theo chiều thẳng đứng lợi ích biên của các cá nhân để đạt được lợi ích biên xã hội. Tại mức sản lượng Q, lợi ích biên xã hội là P = P1 + P2 (cộng theo chiều thẳng đứng tại một lượng nhất định bởi vì: theo định nghĩa mọi người đều tiêu dùng một lượng hàng công cộng A).

Hình 7.7 cũng cho thấy chi phí biên của việc sản xuất hàng hóa công cộng A.

Nếu không có ngoại ứng sản xuất thì chi phí biên cá nhân và chi phí biên xã hội của việc sản xuất sản phẩm A sẽ trùng nhau. Mức có hiệu quả về mặt xã hội để sản xuất mặt hàng này Q*, nơi mà lợi ích biên của xã hội bằng chi phí biên của xã hội.

Nếu A giao cho tư nhân sản xuất và tiêu thụ. Người số 1 có thể trả giá P1 để có lượng Q do một doanh nghiệp cung ứng có sức cạnh tranh sản xuất và định giá ở mức chi phí biên. Người số 1 chọn điểm (Q, P1) ở đó chi phí biên P1 bằng lợi ích biên cá nhân của người đó thu nhận được từ đơn vị cuối cùng của mặt hàng công cộng đó. Người số 2 có chịu trả tiền để có sản lượng > Q không? Sẽ là không, bởi với giá P2 thấp hơn P1 họ vẫn được hưởng lượng Q (theo định nghĩa). Do vậy, người số 2 trở thành "người ăn theo" hưởng mức Q như người thứ nhất (phần ăn không của người số 2 là phần nằm dưới D2).

Cuối cùng thì tổng lượng tư nhân sản xuất và tiêu thụ trên thị trường tự do cạnh tranh luôn nhỏ hơn lượng Q* có hiệu quả về mặt xã hội. Để có sản lượng Q* (điều mà thị trường tự do cạnh tranh không làm được) chỉ có con đường Nhà nước phải hành động (cần phân biệt Nhà nước hành động với Nhà nước sản xuất).

7.2.4. Công bằng xã hội

Công bằng gắn liền với sự phân phối thu nhập, với mục tiêu nhằm làm cho mỗi một thành viên trong xã hội có mức thoả dụng hợp lý (theo cả hai chiều dọc và ngang). Thị trường tự do cạnh tranh tất yếu dẫn tới sự phân hoá theo khu vực, theo thu nhập cũng như theo giới tính, chủng tộc giữa người hoạt động kinh tế giống nhau, gây nên những bất bình đẳng. Để khắc phục, phải tiến hành phân phối lại thu nhập của cải thông qua thuế trợ cấp hoặc các phúc lợi khác. Nhưng chính hành động đó lại gây ra sự méo mó. Hệ thống giá cả, hoạt động thông qua các thị trường cạnh tranh tự do sẽ làm cho lợi ích biên của hàng hoá bị đánh thuế với chi phí biên của chúng không cân bằng nữa. Điểm cân bằng mới sẽ không có hiệu quả phân bổ. Xã hội sẽ lãng phí những nguồn lực do sản xuất những hàng hoá khác nhau với những mức sản lượng không hợp lý.

Trên hình 7.8, D là đường cầu, S là đường cung. Bình thường ở E đạt hiệu quả phân bổ các nguồn lực. Khi đánh thuế, S dịch chuyển đến S'. Điểm cân bằng mới ở E' có Q'E < QE và P'E > PE không phải là điểm đạt hiệu quả Pareto, nhiệm vụ của Chính phủ là phải tính đến điểm "tốt thứ nhì".


S'

E'

S

E

D

F

P


PE'


PE PF


O QE'

QE Q

Hình 7. 8 : Điểm cân bằng không phải điểm đạt hiệu quả Pareto

7.3. VAI TRÒ CỦA CHÍNH PHỦ TRONG VIỆC KHẮC PHỤC NHỮNG KHUYẾT TẬT CỦA THỊ TRƯỜNG

7.3.1. Chức năng của Chính phủ

Để khắc phục những hạn chế của kinh tế thị trường, Chính phủ thực hiện các chức năng kinh tế chủ yếu sau:

- Xây dựng pháp luật, các quy định và quy chế điều tiết

Nhà nước đề ra hệ thống luật pháp, trên cơ sở đó đặt ra những điều luật cơ bản về quyền sở hữu tài sản và hoạt động của thị trường.

Chính phủ, cũng như chính quyền các cấp còn lập nên một hệ thống quy định chi tiết, các quy chế điều tiết,... nhằm tạo nên một môi trường thuận lợi và hành lang an toàn cho sự phát triển có hiệu quả của các hoạt động kinh tế xã hội.

- Ổn định và cải thiện các hoạt động của nền kinh tế

Chính phủ thông qua các chính sách kinh tế vĩ mô như kiểm soát thuế khoá, kiểm soát số lượng tiền trong nền kinh tế mà cố gắng làm dịu những dao động lên xuống trong chu kỳ kinh doanh, hạn chế thất nghiệp, lạm phát, phá vỡ sự trì trệ.

- Tác động đến việc phân bố các nguồn lực

Chính phủ có thể tác động đến sự phân bổ nguồn lực bằng cách trực tiếp tác động đến sản xuất "cái gì" qua sự lựa chọn của Chính phủ, qua hệ thống luật pháp, tác động đến khâu phân phối "cho ai" qua thuế, trợ cấp đối với giá cả và mức sản lượng sản xuất.

- Quy hoạch và tổ chức thu hút các nguồn đầu tư về kết cấu hạ tầng

Các yếu tố kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội là điều kiện quan trọng để phát triển kinh tế xã hội đất nước. Tầm quan trọng quy mô của nó đòi hỏi nhà nước phải là người đứng ra chăm lo từ khâu quy hoạch đến tổ chức phối hợp đầu tư, xây dựng và quản lý sử dụng.

7.3.2. Các công cụ kinh tế chủ yếu của Chính phủ

(1) Xây dựng các chính sách, các chương trình tác động đến khâu phân phối lại thu nhập nhằm bảo đảm công bằng xã hội; thông thường đó là các chương trình kinh tế xã hội, chính sách thuế, trợ cấp, đầu tư cho các công trình phúc lợi.

(2) Các công cụ chủ yếu của Chính phủ tác động vào kinh tế:

* Các công cụ chủ yếu là: Hệ thống pháp luật và bộ máy thực thi pháp luật.

* Các công cụ tài chính tiền tệ: Hệ thống kinh tế nhà nước

Trong phần này chúng ta quan tâm đến các công cụ tài chính tiền tệ và việc tổ chức hệ thống kinh tế nhà nước. Cụ thể như sau :

- Chi tiêu của Chính phủ

Chi tiêu của Chính phủ là rất lớn và đóng một vai trò tích cực trong nền kinh tế thị trường.

Ví dụ: Ở nước Anh, một quốc gia điển hình phát triển kinh tế thị trường lâu đời nhất, chi tiêu của Chính phủ từ năm 1956 - 1988 luôn có tỷ lệ khá cao trong tổng sản phẩm quốc nội. Năm 1976, tổng chi tiêu lên đến 46,9% thu nhập quốc dân, trong đó chi hàng hoá và dịch vụ là 25,9%, chi chuyển nhượng là 21%. Những năm 1980 mặc dù Chính phủ Thatcher đã cố gắng để giảm các khoản chi này nhưng đến năm 1988 tổng chi vẫn là 42%, trong đó chi hàng hoá, dịch vụ vẫn là 22% (David Begg, Kinh tế học, tập 1, trang 398, NXB Giáo dục, 1992).

Các khoản chi tiêu về hàng hoá, dịch vụ mà lớn nhất dành cho y tế, giáo dục, quốc phòng, an ninh sử dụng trực tiếp các yếu tố sản xuất, tham gia vào việc phân chia các nguồn lực khan hiếm của xã hội. Các khoản chi tiêu của Chính phủ về thanh toán chuyển nhượng như trợ cấp xã hội, lương hưu. Nhà nước chuyển sức mua từ một nhóm người tiêu dùng này (nhóm những người đóng thuế) sang một nhóm người tiêu dùng khác (nhóm người nhận thanh toán chuyển nhượng hay trợ cấp). Chi tiêu của Chính phủ kích thích cầu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phá vỡ trì trệ. Chi tiêu của Chính phủ bảo đảm và tăng cường khả năng gia tăng lượng cung.

- Kiểm soát lượng tiền lưu thông

Ngân hàng Nhà nước là nơi kiểm soát lượng tiền, có thể tăng nhanh số lượng tiền hơn nữa trong cơn suy thoái để thúc đẩy nền kinh tế vượt qua khó khăn suy thoái. Khi lạm phát cao Ngân hàng Nhà nước có thể hạn chế phát hành và giảm bớt lượng tiền lưu thông để giảm tỷ lệ lạm phát.

Ngân hàng qua việc điều chỉnh các tỷ lệ lãi suất tiền gửi, tiền cho vay đầu tư mà tác động vào tổng cung, tổng cầu và cân bằng cung cầu của nền kinh tế quốc dân.

- Thuế

Thuế là một công cụ tài chính rất quan trọng. Có thể phân loại các loại thuế theo nhiều tiêu thức. Theo đối tượng đánh thuế, có thể chia thành 3 loại thuế: thuế trực tiếp, thuế gián tiếp, thuế tài sản.

Thuế trực tiếp là loại thuế mà tứng cá nhân nộp thuế thu nhập về khoản tiền kiếm được do sức lao động, tiền cho thuê, cổ tức và lãi suất.

Thuế gián tiếp là những loại thuế đánh vào việc tiêu thụ hàng hoá và dịch vụ. Nguồn thu nhập thuế gián tiếp quan trọng nhất là thuế giá trị gia tăng (VAT) trên thực tế đó là thuế đánh hàng bán lẻ (khác với thuế tiêu thụ được thu vào điểm bán hàng cuối cùng đối với người tiêu dùng, thì VAT được thu ở những giai đoạn khác nhau của quá trình sản xuất).

Thuế tài sản là loại thuế đánh vào bản thân tài sản chứ không phải từ thu nhập để ra tài sản đó. Có thể có thuế đánh vào giá trị tài sản và thuế chuyển nhượng tài sản.

Ở nước ta có các loại thuế như thuế nông nghiệp, thuế VAT, thuế lợi tức, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế thu nhập, thuế xuất nhập khẩu, thuế tài nguyên, thuế trước bạ, thuế môn bài. Hình thành một hệ thống các loại thuế là một công việc cực kỳ phức tạp có nhiều khía cạnh cần phải được quan tâm. Trong đó cần chú trọng xử lý tốt mối quan hệ giữa thuế khoá và sự công bằng thuế khoá với sự phân bố hợp lý các nguồn lực, và xác định cho rò thực chất ai là người nộp thuế.

- Tổ chức và sử dụng hệ thống kinh tế Nhà nước

Sự can thiệp của Nhà nước có thể tồn tại dưới nhiều hình thức. Trong đó có việc kiểm soát trực tiếp một số ngành thông qua sở hữu Nhà nước.

Hệ thống kinh tế Nhà nước là một công cụ đắc lực để định hướng phát triển nền kinh tế, khắc phục các thất bại của kinh tế thị trường, đồng thời góp phần giải quyết công việc làm, tăng thu cho ngân sách,...

Sự hình thành và tồn tại của hệ thống kinh tế Nhà nước là một tất yếu khách quan. Tuy nhiên, vấn đề cần đặt ra là quy mô cần thiết và cơ cấu ngành nghề của hệ thống doanh nghiệp Nhà nước. Hay nói cách khác đi là ranh giới của quy mô khu vực Nhà nước và khu vực kinh tế tư nhân cần được vạch ra một cách hợp lý.

Chính phủ có thể đảm nhận sản xuất các mặt hàng và dịch vụ công cộng như quốc phòng, y tế, giáo dục và một số ngành nghề tạo ra hàng hoá, dịch vụ cá nhân. Ngoài ra, Chính phủ cần phải giải quyết vấn đề độc quyền để bảo đảm hiệu quả kinh tế xã hội cao.

Về quy mô, cần xác định theo nguyên tắc: đồng bạc cuối cùng Nhà nước chi ra phải đem lại lợi ích bằng đồng bạc cuối cùng do khu vực tư nhân tạo ra.

Các hoạt động kinh tế của Nhà nước phải đảm bảo chi phí biên xã hội bằng với lợi ích cận biên xã hội nhằm tối đa hoá phúc lợi cho xã hội.

Các phương pháp điều tiết của Chính phủ

Lựa chọn phương pháp điều tiết là một vấn đề không đơn giản. Trước hết, phải xuất phát từ mục tiêu của việc điều tiết. Các mục tiêu thường đặt ra là: mức giá, mức sản lượng, mức lợi nhuận, thu nhập. Khi lựa chọn, các mục tiêu thường trái ngược nhau nên phải có phương pháp thích hợp mới đạt được mục tiêu mong muốn. Thứ đến là cần cân nhắc hiệu quả của sự điều tiết nghĩa là phải so sánh giữa kết quả thu được với chi phí bỏ ra. Các loại chi phí thường là: chi phí hành chính, chi phí bắt buộc (như chi phí đào tạo, chi phí xây dựng),... Trong đánh giá hiệu quả cần lưu ý đến các hậu quả do hành động điều tiết gây nên, thí dụ, sự thay đổi cơ cấu sản lượng theo hướng không tối ưu do quyết định sai lầm, kìm hãm việc áp dụng công nghệ mới, giảm chất lượng sản phẩm... Vì vậy, sự can thiệp và phương pháp điều tiết phải hết sức thận trọng.

Dưới đây, một minh hoạ về quá trình điều tiết thông qua việc nghiên cứu trường hợp điển hình: điều tiết độc quyền tự nhiên.

- Điều tiết giá cả

Đặc điểm nổi bật của độc quyền tự nhiên là đường MC luôn nằm dưới đường ATC tại mọi mức sản lượng. Đường ATC không uốn hình chữ U vì đường MC không vượt qua đường ATC. Sở dĩ có hiện tượng này là do ưu thế của quy mô lớn, chi phí đơn vị sản phẩm giảm xuống khi sản lượng tăng lên. Hãng độc quyền có thể đặt giá thấp hơn các hãng nhỏ. Hãng có thể đảm nhận toàn bộ mức cung, khống chế toàn bộ ngành nếu không bị điều tiết.

A'

D

C

B'

ATC

B

MC

MR

D

A

P


PA PD

PC MCA PB


O

QA QD QC QB Q

Hình 7.9 : Điều tiết độc quyền tự nhiên

Từ mục tiêu lợi nhuận tối đa hãng độc quyền tự nhiên sẽ tìm giao điểm A của đường MC với đường MR chỉ sản xuất một lượng sản phẩm là QA với mức giá PA.

Sản lượng mà nhà độc quyền chọn lại không phải là mức sản lượng mà xã hội

mong muốn, cơ cấu giá cả - sản lượng trên đã vi phạm nguyên tắc cạnh tranh của giá cả - chi phí cận biên. Giá cả độc quyền PA vượt quá xa chi phí cận biên MCA để sản xuất ở sản lượng QA. Kết quả là người tiêu dùng không được thông tin cụ thể về chi phí cơ hội thực sự của sản phẩm đó. Từ đó, người tiêu dùng sẽ tiêu dùng với cơ cấu không tối ưu.

Sản lượng lợi nhuận tối đa hoá của nhà độc quyền cũng chưa đạt tới tổng chi phí bình quân tối thiếu trong một ngành cạnh tranh. Tuy nhiên, trong trường hợp này sự giảm của ATC sẽ dừng lại khi nhà độc quyền đạt được mức sản lượng mong muốn của mình QA. Rò ràng là, mức giá PA cao và mức QA nhỏ đã bảo đảm lợi nhuận cao cho nhà độc quyền. Lợi nhuận kinh tế này có thể vi phạm quan điểm công bằng xã hội.

Kết quả không tối ưu do độc quyền tự nhiên gây nên đặt ra yêu cầu về sự can thiệp của Chính phủ. Nhưng Chính phủ lại phải lựa chọn một trong các mục tiêu: hiệu quả giá cả, hiệu quả sản xuất, sự công bằng.

Giá cả có hiệu quả sẽ báo hiệu những thông tin tỉ mỉ về những chi phí và phúc lợi của người tiêu dùng. Trong trường hợp này chúng ta có thể thu được hiệu quả giá cả bằng cách buộc định giá theo chi phí cận biên. Điểm B trên đồ thị 7.9 tại đó đường cầu D và đường chi phí cận biên cắt nhau đạt được ý định trên. Mức giá áp đặt sẽ là PB.

Tuy nhiên, mức giá PB sẽ làm cho người sản xuất bị phá sản. Vì MC luôn nhỏ

hơn ATC, do đó việc định giá theo chi phí cận biên của nhà độc quyền sẽ gây thiệt hại đối với mỗi đơn vị sản phẩm được sản xuất. Trong trường hợp này, mức thiệt hại trên một đơn vị sản phẩm sẽ bằng BB'. Nếu chấp nhận mức giá PB, hãng sẽ phải đóng cửa và rút ra khỏi thị trường. Hãng chỉ có thể ở lại thị trường nếu được trợ cấp một khoản bù lỗ cũng bằng đúng khoản thiệt hại đó.

Hiệu quả sản xuất đạt được tại mức tổng chi phí bình quân thấp nhất. Trong điều kiện độc quyền tự nhiân ở mức QB chi phí bình quân chưa phải là thấp nhất, ở mức sản lượng > QB mức chi phí bình quân sẽ còn thấp hơn. Như vậy, trong điều kiện độc quyền tự nhiên, hiệu quả sản xuất đạt được mức chi phí bình quân thấp nhất. Do đó, cần có sự bù lỗ để bù đắp sự thiệt hại do thị trường gây ra.

Mục tiêu công bằng đạt được thông qua điều tiết lợi nhuận. Trong trường hợp này phải đặt giá bằng tổng chi phí bình quân. Trong đồ thị mục tiêu điều tiết đạt được tại điểm C (QC, PC).

- Điều tiết sản lượng

Do những mâu thuẫn vốn có khi lựa chọn các mục tiêu nên khi điều tiết người ta tìm kiếm một sự thoả hiệp. Phương pháp thường được vận dụng là điều chỉnh sản lượng trực tiếp. Ví dụ, có thể buộc một hãng phải sản xuất với một mức sản lượng tối thiểu nào đó, và để cầu của người tiêu dùng xác định giá ứng với mức sản lượng đó.

Mức tối thiểu cần được điều chỉnh là QD trong đồ thị 7.9. Tại QD người tiêu dùng có QD > QA và PD < PA. Nhà độc quyền có lợi nhuận thấp hơn lợi nhuận ở A (QA, PA). Điều tiết sản lượng là phương pháp ép buộc dễ chấp nhận nhất.

NỘI DUNG ÔN TẬP


I. LÝ THUYẾT

Câu hỏi tự luận

Câu 1. Thế nào là hiệu quả Pareto?

Câu 2. Hàng hóa công cộng là gì? Hãy nêu biện pháp khắc phục sự thiếu thốn hàng hóa công cộng?

Câu 3. Phân biệt hàng hóa công cộng và hàng hóa cá nhân. Câu 4. Ngoại ứng là gì? Cho ví dụ minh họa.

Câu 5. Phân biệt ngoại ứng tích cực và ngoại ứng tiêu cực. Trình bày biện pháp khắc phục các ngoại ứng.

Câu 6. Trình bày phương pháp điều tiết độc quyền tự nhiên.

Câu 7. Người ta cho rằng mục đích duy nhất của việc đánh thuế là có tiền để trả cho những chi tiêu của Chính phủ. Theo anh/ chị quan điểm này có đúng không? Hãy giải thích.

Câu hỏi trả lời đúng/sai và giải thích

Câu 1. Khi không có sự can thiệp của chính phủ, thị trường luôn luôn tạo ra các kết quả hiệu quả.

Câu 2. Những thất bại của thị trường giao cho chính phủ nhiệm vụ cải thiện khi thị trường phân bổ tài nguyên không hiệu quả.

Câu 3. Thị trường thất bại vì quá nhiều người bị có động cơ tham lam.

Câu 4. Thị trường luôn luôn cung quá nhiều hàng hoá mà có ảnh hưởng hướng ngoại tích cực.

Câu 5. Chi phí xã hội cận biên lớn hơn chi phí tư nhân cận biên đối với những hàng hoá tạo ra ảnh hưởng hướng ngoại tiêu cực.

Câu 6. Xác định lại quyền sở hữu tài sản đôi khi có thể sửa chữa được thất bại của thị trường.

Câu 7. Vì ô nhiễm là một ví dụ của ảnh hưởng hướng ngoại tiêu cực nên các nhà kinh tế khuyến nghị đánh thuế việc làm giảm ô nhiễm.

Câu 8. Hàng hoá công cộng là không cạnh tranh trong tiêu dùng ở chỗ một khi nó đã được cung ra cho một số nào đó thì mọi người đều có thể hưởng thụ chúng.

Câu 9. Nếu chỉ cần nhà nước đánh thuế để làm giảm lợi nhuận độc quyền thì thiệt hại của độc quyền sẽ bị loại bỏ.

Câu 10. Ảnh hưởng hướng ngoại có thể là một trường hợp xa rời khỏi tự do kinh doanh.

Câu hỏi trắc nghiệm

Câu 1. Vai trò của Chính phủ trong nền kinh tế bao gồm:

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 29/06/2022