Kinh nghiệm xây dựng chuỗi cung ứng của các tập đoàn trên thế giới và bài học kinh nghiệm với các tập đoàn kinh tế Việt Nam - 11

nhau. Về địa lý, công ty mở rộng hoạt động của mình bằng việc xây dựng các cơ sở sản xuất ở nước ngoài. Trong nỗ lực đến gần hơn với khách hàng và thiết lập kênh liên lạc trực tiếp với họ, Esquel cũng đã mở nhiều văn phòng đại diện tại Mỹ, châu Âu và Nhật Bản. Tính đến năm 2005, với 47 000 nhân viên, công ty đã có cơ sở sản xuất tại nhiều địa điểm ở Trung Quốc cũng như Việt Nam, Malaysia, Sri Lanka, Philippin và đảo quốc Mauritius cùng một mạng lưới các chi nhánh phục vụ những thị trường quan trọng trên toàn thế giới.

Từ cuối thập niên 80, Esquel đã bắt đầu mở rộng quy mô hoạt động. Ngoài việc sản xuất hàng may mặc, công ty còn đưa vào sản xuất vải dệt thoi, vải dệt kim, sản xuất sợi và thậm chí là nuôi trồng, tỉa hột bông. Chiến lược hội nhập dọc tạo điều kiện cho Esquel kiểm soát tốt hơn toàn bộ quy trình sản xuất và đảm bảo chất lượng sản phẩm cuối cùng. Khả năng sản xuất hàng dệt may của Esquel được hoàn thiện nhờ vào năng lực phát triển sản phẩm của công ty. Bộ phận thiết kế và tiêu thụ sản phẩm của công ty luôn hợp tác làm việc với trung tâm nghiên cứu, phát triển để tạo ra những loại vải, những mẫu thiết kế quần áo độc đáo. Điều này khiến Esquel trở thành công ty đi đầu trong ngành công nghiệp dệt may.

Với dòng sản phẩm công ty cung cấp, ban đầu Esquel sản xuất áo sơ mi nam chất liệu cotton và vải pha. Dần dần, chủng loại sản phẩm được mở rộng bao gồm áo sơ mi nữ và quần vải các loại. Vào thời điểm, Esquel phải đổi mặt với sự thay đổi nhanh chóng của môi trường kinh doanh bên ngoài, cũng như phải trải qua sự cải tổ trong nội bộ công ty, Esquel đã quyết định tạm thời rút khỏi phân khúc thị trường quần vài để tập trung vào các sản phẩm cốt lõi.

Tất cả những sự sáng tạo đó tạo điều kiện cho Esquel cung cấp những sản phẩm, dịch vụ chất lượng cao và luôn đổi mới, đồng thời đảm bảo sự trung thành của khách hàng là những thương hiệu nổi tiếng trên toàn thế giới như Tommy Hilfiger, Polo Ralph Lauren, Brooks Brothers, Abercrombie& Fitch và nhiều nhà bán lẻ lớn như Marks & Spencer, Next, Nordstrom, Ito- Yokado, Aoyama và Jusco. Vào năm 2004, 61% doanh số hàng dệt may được bán sang Mỹ, 15% sang châu Âu, 11% sang Nhật, 4% ở thị trường nội địa và 9% ở các thị trường khác. Tổng doanh

thu của Esquel đạt 462 triệu đô la Mỹ với lợi nhận hoạt động là 17 triệu đô la Mỹ trong năm 2004.

Trong khi nỗ lực điều hành tốt công việc kinh doanh, Esquel vẫn quan tâm đến các nhân viên của công ty. Bằng chứng là việc Esquel luôn cố gắng tạo môi trường làm việc tốt hơn cho nhân viên, tổ chức nhiều hoạt động ngoài giờ làm như tìm hiểu kiến thức về HIV/ AIDS hay các hoạt động khác nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân viên… Bên cạnh đó, Esquel còn nỗ lực tạo ảnh hưởng tốt đến xã hội thông qua các hoạt động hỗ trợ nâng cao chất lượng cuộc sống của dân chúng nơi công ty đặt cơ sở vật chất như đầu tư xây dựng các công trình điện nước cho người dân, đầu tư phát triển giáo dục tại địa phương. Cùng với những hoạt động đó, Esquel cũng tham gia vào các hoạt động bảo vệ môi trường tại khu vực nó hoạt động.

Thành công của Esquel được đánh giá là do nỗ lực cung cấp sản phẩm chất lượng ngày càng cao và sự chuyển đổi theo hướng hội nhập dọc của công ty. Esquel tự hào là nhà sản xuất vải tốt nhất Trung Quốc, đạt được tiêu chuẩn chất lượng ISO9001, tiêu chuẩn ISO14001 cho sản xuất thân thiện với môi trường, áp dụng thành công tiêu chuẩn 5S để duy trì cơ sở sản xuất hiệu quả. Sự chứng nhận của tổ chức USTER năm 2005 về chất lượng của Esquel là một minh chứng rõ ràng về chất lượng sản phẩm sợi và vải của công ty. Công ty có quyền được sử dụng thương hiệu chất lượng USTER như “ con dấu” cho chất lượng của sợi Esquel.

3.2. Chuỗi cung ứng dệt may của Esquel

3.2.1. Cấu trúc chuỗi cung ứng

Tính đến năm 2005, chuỗi cung ứng nội bộ của Esquel đã bao gồm những công đoạn chính trong quy trình sản xuất hàng may mặc. Tất cả các hoạt động, trừ việc nuôi trồng và sản xuất sợi xám, đều được tiến hành dựa theo yêu cầu của khách hàng. Nếu cần thiết, một phần trong quy trình sản xuất sẽ tiến hành thuê ngoài khi năng lực nội bộ không đủ đáp ứng. Chuỗi cung ứng độc đáo này cho phép Esquel mang đến cho khách hàng những sản phẩm, dịch vụ với chất lượng tốt nhất.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 121 trang tài liệu này.


Hình 2.4:Chuỗi cung ứng của Esquel (Nguồn:Hau Lee,Building supply chain excellence in emerging economies, Springerscience-business media,2006,pp 315

Kinh nghiệm xây dựng chuỗi cung ứng của các tập đoàn trên thế giới và bài học kinh nghiệm với các tập đoàn kinh tế Việt Nam - 11

a) Nuôi trồng bông

Công ty quyết định sử dụng bông được trồng tại Tân Cương làm nguyên liệu chính cho sản xuất do bông tại đây có tính chất tương tự loại bông sợi dài có nguồn gốc từ vùng Giza, Ai Cập để sản xuất vải dệt thoi. Và chỉ nhập khẩu bông từ Mỹ và Ai Cập khi nguồn cung cấp tại địa phương không đủ hay có yêu cầu đặc biệt về loại bông. Để đảm bảo hiệu quả hợp tác giữa công ty và người nông dân, Esquel đã mở rộng sản xuất vào năm 1998, tham gia vào việc nuôi trồng bông bằng việc thành lập nông trường bông liên doanh tại Tân Cương. Năm 2005, 10% nguồn bông cung cấp được lấy từ nông trại của chính công ty, phần còn lại được mua từ những người nông dân trong vùng. Esquel cam kết mua bông của người nông dân trước khi họ tiến hành trồng bông để đảm bảo nguồn cung và đảm bảo bông được trồng theo yêu cầu của công ty. Esquel cũng đào tạo người nông dân trong việc chọn hạt giống, thực tiễn canh tác, và cách thức nâng cao sản lượng nhằm mục đích đạt được chất lượng mong muốn đồng thời loại bỏ tạp chất trong quá trình thu hái và tồn trữ. Công ty hướng người nông dân trồng trọt hướng tới chất lượng chứ không phải số lượng, khuyến khích họ trồng loại bông sợi dài để đảm bảo chất lượng yêu cầu

Khi bông được thu hoạch, chúng được chuyển tới nhà máy tỉa hột bông, tại đây hạt bông được tách ra khỏi sợi bông. Tính đến năm 2005, Esquel đã có ba nhà

máy tỉa hột bông, tất cả đều đặt tại Tân Cương, gần với các nông trại bông. Nhà máy đầu tiên, với công suất 1200 tấn một năm, được sử dụng để chế biến bông từ nông trại của chính công ty. Hai nhà máy còn lại, lần lượt đi vào hoạt động vào tháng 9/2003 và 9/2004, được dùng để tập hợp bông từ những người nông dân trong vùng. Hai nhà máy này có năng lực chế biến 6000 tấn sợi bông. Nhu cầu bông còn lại được nhập từ những nhà máy tỉa hột bông khác.

Là một sản phẩm tự nhiên, chất lượng và đặc tính của bông thay đổi theo thời gian và theo nông trại. Công cụ đo lường quy mô lớn HVI (High Volume Instrument) được sử dụng tại các nhà máy tỉa hột bông để kiểm tra chất lượng từng bao bông. Một hệ thống quản lý bao bông sử dụng công nghệ RFID cũng được đưa vào sử dụng để theo dõi chất lượng của từng bao bông. Đây là lần đầu tiên công nghệ RFID được sử dụng trong việc quản lý bông tại nhà máy tỉa hột bông

b) Sản xuất sợi

Esquel quyết định tự xây dựng quy trình sản xuất sợi do khó khăn mà công ty gặp phải khi mua sợi chất lượng cao từ bên ngoài. Nhằm đảm bảo chất lượng sợi, trước khi đưa bông vào quy trình kéo sợi, bông được làm sạch thủ công, loại bỏ những tạp chất. Công cụ kiểm tra quy mô lớn HVI được sử dụng để kiểm tra bông không được nhập từ nhà máy tỉa hột bông của Esquel. Mỗi loại bông được chọn lựa kỹ càng, dựa vào đặc tính của từng bao bông mà được dùng để sản xuất ra những mẻ sợi riêng.

Việc kéo sợi diễn ra tại hai nhà máy kéo sợi của Esquel tại Tân Cương. Hai nhà máy được xây dựng lần lượt vào các năm 1995 và 1998, cùng có công suất 9000 tấn một năm. Hai nhà máy này sử dụng công nghệ hiện đại để sản xuất ra loại sợi đặc với đặc tính là bền hơn và giảm độ xù so với sợi thông thường. Ngoài nhà máy kéo sợi tại Tân Cương, Esquel còn mở một nhà máy khác tại Giang Minh, tỉnh Quảng Đông phía nam Trung Quốc. Nhà máy này chuyên sản xuất loại sợi nhiều màu sắc. Khác với sợi xám, loại sợi này được kéo từ bông đã được nhuộm và được dùng để sản xuất loại vải với mẫu màu đặc biệt. Do có nhiều màu sắc, nhiều chủng loại lựa chọn nên phần lớn sợi màu đều được sản xuất dựa trên đơn hàng thực tế trong khoảng thời gian 2-3 tuần. Trong suốt quá trình kéo sợi, các sợi bông ngắn

được loại bỏ. Và thay vì vứt đi, Esquel đã sử dụng chúng cho quy trình kéo sợi mở rộng để sản xuất ra sợi thô, bán cho các nhà máy sản xuất vải bông chéo hay các loại vải thô. Cuối quy trình kéo sợi, chất lượng của một mẫu sợi sẽ được chuyển tới phòng thí nghiệm đặt tại mỗi nhà máy để kiểm tra chất lượng. Chỉ khi chúng đạt yêu cầu thì lô sản phẩm đó mới được chuyển tới khâu tiếp theo là dệt vải.

c) Dệt vải

Khi Esquel hướng tới thị trường cao cấp và bắt đầu cung cấp hàng may mặc cho những khách hàng như Polo Ralph Lauren, nhu cầu về những loại vải tốt hơn ngày càng tăng. Tuy nhiên vào cuối thập niên 80, vải dệt từ Nhât Bản được Esquel sử dụng chủ yếu để sản xuất loại vải dệt thoi chất lượng cao trở nên quá đắt và chất lượng không đảm bảo. Không thể tìm được nguồn cung cấp nào khác, Esquel quyết định xây dựng nhà máy sản xuất vải riêng của hãng.

Quy trình sản xuất bao gồm nhuộm, đan hay dệt, hoàn thiện và kiểm tra chất lượng. Tất cả các bước được thực hiện tại cơ sở sản xuất Giang Minh, trung tâm sản xuất lớn nhất của công ty với 21 000 nhân công (tính đến năm 2004)23

- Nhuộm: Phòng thí nghiệm sẽ xác định chính xác công thức màu cho từng loại vải dựa trên yêu cầu của khách hàng. Sau đó, nó được lưu vào máy tính sau đó máy tính sẽ kiểm soát quá trình nhuộm vải hay sợi. Sự kiểm soát tự động đảm bảo tính đồng đều của sản phẩm sau khi nhuộm.

- Dệt: Nhà máy dệt sợi nhuộm được xây dựng vào năm 1989, công suất của nó tăng lên theo từng năm để đáp ứng nhu cầu của công ty. Tính đến năm 2004 nhà máy có 560 máy dệt. Quy trình dệt được tự động hóa với rất ít sự can thiệp của con người. Vào cuối năm 2004, Esquel mở rộng các cơ sở dệt vải bằng việc xây dựng thêm một nhà máy mới tại Giang Minh với khoản đầu tư 150 triệu đô la Mỹ

- Đan: Nhà máy dệt kim được xây dựng vào năm 1988 sau đó được chuyển tới Giang Minh năm 1996. Tính đến năm 2004, nhà máy này có 179 máy dệt kim đủ cung cấp nhu cầu của công ty về loại vải dệt kim.


23 Hau Lee,Building supply chain excellence in emerging economies, Springerscience-business media,2006,pp 318

- Hoàn thiện sản phẩm: Trong bước này, vải được xử lý để mang lại những đặc tính như nhẹ, bền chắc cũng như những chất lượng đặc biệt như chống thấm nước, không nhăn… Quá trình này được thực hiện dựa trên yêu cầu của khách hàng.

- Kiểm tra chất lượng sản phẩm: Sau khi sản phẩm được sản xuất xong, nó sẽ trải qua cuộc kiểm tra toàn diện. Tất cả những vấn đề về chất lượng sẽ được ghi lại. Nhóm kiểm soát chất lượng sau đó sẽ làm việc với bộ phận sản xuất để tìm ra nguyên nhân vấn đề và tìm cách giải quyết.

d) Sản xuất hàng may mặc

Nhà máy sản xuất hàng may mặc của Esquel đặt tại nhiều địa điểm khác nhau bao gồm bốm địa điểm khác nhau tại Trung Quốc, các nhà máy tại Malaysia, Việt Nam, Sri Lanka, Philippin, Hồng Kông. Việc thực hiện đơn hàng được phân bổ giữa các nhà máy dựa trên yêu cầu của khách hàng về thời gian thực hiện đơn hàng, năng lực của từng nhà máy, thị hiểu khách hàng cũng như những hạn chế thương mại và hạn ngạch. Trên thực tế, Esquel chọn cách phân bố hoạt động rải rác theo địa lý cho dù việc này có thể khiến cho dòng lưu thông nguyên vật liệu trở nên phức tạp và giảm lợi thế kinh tế theo quy mô. Lý do chủ yếu dẫn đến quyết định trên là do yếu tố hạn ngạch và sự sẵn có của nguồn lao động. Ví dụ, ưu đãi đặc biệt trong nhập khẩu từ các nước châu Phi của Mỹ là nguyên nhân chính khiến Esquel vẫn duy trì hoạt động nhà máy của công ty tại Mauritius. Một lợi ích khác của việc có nhiều địa điểm sản xuất là Esquel có được sự linh hoạt trong quá trình sản xuất. Tuy nhiên, đổi lại công ty phải tiến hành tiêu chuẩn hóa chất lượng giữa các nhà máy để đảm bảo khách hàng sẽ luôn nhận được những sản phẩm với chất lượng giống nhau.

Quy định về gia công ở ngoài lãnh thổ (outward processing arrangement) là một cách khác để Esquel cân bằng giữa chi phí nhân công và những quy định hạn ngạch. Dưới quy định về gia công ngoài lãnh thổ, phần lớn hoạt động sản xuất của Esquel diễn ra tại Trung Quốc. Bán thành phẩm sẽ được chuyển sang các quốc gia khác để hoàn thiện các công đoạn cuối để cho ra sản phẩm may mặc hoàn chỉnh. Việc thực hiện theo quy định này dù có làm mất đi tính hiệu quả trong sản xuất

nhưng xét về lợi ích tài chính thì công ty hoàn toàn có lợi vì khi xuất bán thành phẩm sang nước khác công ty được hưởng mức thuế ưu đãi.

Sản xuất hàng may mặc bao gồm những bước sau đây:

- Cắt vải: Công việc này được thực hiện thủ công hoặc tự động. Việc cắt vải tự động cho hiệu quả cao nhưng đôi khi với những mẫu vải đặc biệt hay lượng đơn hàng nhỏ thì việc cắt vải bằng tay sẽ thích hợp hơn. Việc cắt vải là bước quan trọng ảnh hưởng tới sản phẩm cuối cùng nên nó được kiểm tra rất kỹ càng

- Bó: Trong bước này, 5-15 mảnh của một phần tạo nên sản phẩm cuối cùng được bó lại với nhau và được gắn một tấm thẻ xác định đơn hàng yêu cầu cho bó đó. Sau đó chúng được chuyển đến xưởng may hay xưởng thêu nếu cần.

- May : Đây là công đoạn được làm thủ công, ráp nối các phần của sản phẩm cuối cùng với nhau. Mỗi công nhân trong xưởng may sẽ chuyên môn hóa may một bộ phận nhất định. Bảng chỉ dẫn may được đặt tại xưởng để đảm bảo đơn hàng được gia công chính xác.

- Giặt: Đôi khi hàng may mặc được giặt để tạo ra những hiệu ứng đặc biệt

- Kiểm tra cuối cùng: Ở cuối quy trình, hàng may mặc được kiểm tra toàn diện. Việc kiểm tra được tiến hành trên hàng mẫu của mỗi lô hàng xuất xưởng.

- Hoàn thiện và đóng gói: Công đoạn nay bao gồm việc là ủi, gắn các phụ kiện cần thiết và đóng gói sản phẩm. Hàng may mặc xuất sang Nhật Bản hay hàng dành cho trẻ em còn phải trải qua công đoạn kiểm tra để đảm bảo không còn sót một chiếc kim khâu nào trên sản phẩm.

e) Đồ phụ kiện

Esquel tham gia vào phân khúc thị trường này chủ yếu là do chất lượng của đồ phụ kiện không đảm bảo, việc thương lượng kém hiệu quả và lợi nhuận thu về khi cung cấp đồ phụ kiện kèm theo sản phẩm may mặc. Năm 1985 Esquel tham gia liên doanh với tập đoàn sản xuất cúc áo Rochester và sau đó 5 năm Esquel mua lại tập đoàn này. Esquel tiến hành mở rộng dần hoạt động kinh doanh này với việc cung cấp các sản phẩm như cúc áo, vòng khuyết tay, giấy lụa bao gói, nẹp cổ áo, túi

polyetelen. Ngoài việc đáp ứng nhu cầu nội bộ, các phụ kiện công ty sản xuất còn được bán cho các công ty may mặc khác. Để tận dụng năng lực sản xuất của các nhà máy sản xuất phụ kiện, Esquel còn cho sản xuất những sản phẩm không trực tiếp liên quan đế ngành may mặc như túi mua hàng, túi đựng quà hay các loại hộp. Cùng với đó, một số nguyên liệu thừa như nhựa plastic được tái sử dụng, sản xuất ra các loại hàng hóa khác. Điều này không những làm tăng lợi nhuận mà còn giúp bảo vệ môi trường xung quanh nhà máy.

Công việc kinh doanh trong thị trường đồ phụ kiện của Esquel không ngừng phát triển bằng việc cải tiến sản phẩm và trở thành công việc kinh doanh độc lập có khách hàng riêng. Danh mục hàng hóa cung cấp mở rộng sang các sản phẩm da, các loại vòng. Năm 2004, lĩnh vực kinh doanh này đóng góp khoảng 7% trong tổng doanh thu của công ty24.

f) Các cửa hàng bán lẻ

Vào những năm đầu thập niên 90, Esquel quyết định bắt đầu tự bán những sản phẩm may mặc của mình tại Trung Quốc với việc xây dựng một mạng lưới các cửa hàng bán lẻ riêng. Vào giai đoạn phát triển, mạng lưới này đã có tới 100 cửa hàng bán lẻ. Nhưng do những khó khăn như hệ thống vận tải chưa hoàn chỉnh, tính bất ổn định trong hoạt động nhượng quyền thương mại, khó khăn trong việc kiểm soát hoạt động và hạn chế về cơ sở hạ tầng đã khiến Esquel không thể cung cấp sản phẩm tới người dùng một cách tốt nhất. Điều này dẫn tới việc đóng cửa tất cả các cửa hàng bán lẻ của công ty và chuyển đổi chức năng sử dụng của chúng.

Vào năm 2001, Esquel triển khai lại dự án bán hàng trực tiếp tới người tiêu dùng nhưng lần này công ty tập trung cung cấp các loại áo sơ mi cao cấp với mức giá cao. Thời gian đầu, Esquel khai trương hai cửa hàng tại Bắc Kinh. Mục tiêu của Esquel không phải là lợi nhuận mà là nâng cao vị thế thương hiệu, tạo cơ hội để thử nghiệm những sản phẩm mới và chứng minh năng lực của công ty trong lĩnh vực thiết kế cũng như sản xuất hàng may mặc chất lượng cao. Hơn nữa, qua các cửa hàng bán lẻ này công ty sẽ nắm bắt được thị hiếu người tiêu dùng chính xác, kịp


24 Hau Lee,Building supply chain excellence in emerging economies, Springerscience-business media,2006,pp 321

Xem tất cả 121 trang.

Ngày đăng: 05/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí