Xây Dựng Và Phát Triển Thương Hiệu Doanh Nghiệp

doanh với nhau. Sự hợp tác liên kết giữa các doanh nghiệp thuộc các ngành khác nhau sẽ giúp các SMEs giảm thiểu những khó khăn về tài chính, công nghệ, vốn, thị trường... và đẩy mạnh nội lực phát triển cho doanh nghiệp.

2.5 Nâng cao trình độ công nghệ

Có một thực tế là nhiều SMEs khi được các phái đoàn hoặc các tổ chức chính phủ và phi chính phủ tới thăm đều chỉ mong đợi trước khi ra về, những “vị khách đặc biệt” này sẽ ưu ái tặng lại cho mình những khoản hỗ trợ tài chính đáng kể. Trên thực tế, ở nhiều quốc gia, hình thức hỗ trợ phổ biến cho SMEs cũng là việc “cho, tặng” các khoản tài chính như thế này. Tuy nhiên, đối với Hàn Quốc, Chính phủ có quan điểm rõ ràng rằng thay vì tặng cho các SMEs những “mẻ cá”, Chính phủ sẽ tặng cho họ “những chiếc cần câu” với hi vọng với công cụ hữu ích này, các SMEs sẽ có thể tự “đánh bắt” cho mình nhiều “mẻ cá” lớn hơn thế, nghĩa là thay vì tặng cho doanh nghiệp một khoản hỗ trợ về tiền, Hàn Quốc quan tâm hơn đến việc hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư phát triển công nghệ. Như đã đề cập ở chương II, rất nhiều chính sách và biện pháp nhằm nâng cao trình độ công nghệ cho SMEs đã được Chính phủ Hàn Quốc đưa ra và thực hiện một cách hiệu quả. Kết quả là năng suất lao động của các SMEs ngày càng được nâng cao, chi phí sản xuất giảm dần, lợi nhuận doanh nghiệp do đó tăng lên đáng kể.

Có thể nói đây chính là bài học quan trọng nhất đối với công cuộc phát triển SMEs ở Việt Nam. Theo đó, bên cạnh những nỗ lực của bản thân các SMEs, vấn đề về nâng cao trình độ công nghệ cho doanh nghiệp còn rất cần có sự ủng hộ và trợ giúp từ phía Nhà nước.

Thứ nhất, cần thiết có sự hỗ trợ của Nhà nước trong việc tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động đổi mới thiết bị công nghệ.

Nhà nước cần có chính sách nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc hình thành thị trường công nghệ để tăng khả năng tiếp cận thông tin và kỹ thuật công nghệ cao cho SMEs. Sự hỗ trợ của Nhà nước có thể bao gồm các nội dung sau:

- Hình thành thị trường thiết bị và công nghệ trên cơ sở khuyến khích hoạt động của các đơn vị kinh doanh thiết bị công nghệ và hình thành khu vực thương mại công nghiệp tập trung như các khu vực điện, điện tử, vật liệu, xây dựng...

- Hình thành thị trường dịch vụ tư vấn chuyển giao công nghệ.

- Hình thành các đơn vị kiểm định công nghệ trực thuộc các sở khoa học- công nghệ- môi trường có chức năng kiểm định, đánh giá trình độ thiết bị công nghệ theo nhu cầu quản lý Nhà nước và nhu cầu xác định giá trị thiết bị, công nghệ của SMEs.

- Tăng cường hoạt động thông tin công nghệ trên các phương tiện thông tin đại chúng, thúc đẩy hơn nữa các hoạt động đào tạo và đào tạo lại lao động kĩ thuật theo yêu cầu của quá trình đổi mới công nghệ của SMEs.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 124 trang tài liệu này.

Bên cạnh đó, Nhà nước cần mở rộng thị trường công nghệ bằng việc khuyến khích các hoạt động giao lưu thương mại về công nghệ, các trung tâm thông tin, tư vấn công nghệ, gắn các cơ sở nghiên cứu với các cơ sở sản xuất. Khẩn trương xây dựng các chiến lược công nghệ, ban hành các định chế liên quan đến công nghệ, sở hữu công nghệ, sở hữu trí tuê, tạo điều kiện cho các SMEs tìm hiểu thị trường công nghệ mới.

Thứ hai, cho phép khấu hao nhanh máy móc thiết bị và khấu trừ khi xác định thuế lợi tức

Kinh nghiệm phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ của Hàn Quốc và bài học kinh nghiệm với Việt Nam - 13

Kinh nghiệm của Hàn Quốc cho thấy đây là một trong những biện pháp hiệu quả nhằm khuyến khích các SMEs đầu tư đổi mới trang thiết bị và máy móc. Theo phương pháp khấu hao nhanh doanh nghiệp có thể bút toán và khấu hao nhiều hơn giá trị khấu hao thường, thậm chí là gấp đôi. Lúc đó doanh nghiệp sẽ giảm được số lợi tức tính thuế của mỗi năm và giảm số thuế phải nộp.

Thứ ba, cần có các văn bản pháp luật quy định cụ thể nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động thuê mua tài chính, bán trả góp để các SMEs thiếu vốn có thể nâng cấp máy móc thiết bị tốt hơn mà không phải mà không phải bỏ ra một khoản tiền khổng lồ. Cho thuê tài chính cũng giúp các SMEs tránh được tình trạng “mắc kẹt” trong công nghệ. Bởi lẽ, trong thời đại khoa học kỹ thuật phát triển như vũ bạo hiện nay, công nghệ rất nhanh chóng bị lão hoá, vòng đời công nghệ ngày càng bị rút ngắn, một công nghệ được coi là hiện đại trong giai đoạn này thì chỉ trong một thời gian ngắn sau lại có công nghệ hiện đại hơn thay thế. Nếu các doanh nghiịep dùng một khoản tài chính lớn đầu tư vào công nghệ họ sẽ không có tiền liên tục đổi mới công nghệ, kết quả là doanh nghiệp bị lạc hậu về công nghệ, sản phẩm làm ra không có sức cạnh tranh, không còn khả năng chiếm lĩnh thị trường. Trong

khi đó máy móc thiết bị vẫn chưa khấu hao hết và doanh nghiệp rơi vào tình trạng “mắc kẹt” trong công nghệ. Để giúp các doanh nghiệp tránh tình trạng này Nhà nước nên mở cửa thị trường cho máy móc thiết bị cũ nhằm thu hút kỹ thuật từ nước ngoài, nhưng chỉ chấp nhận miễn thuế cho những thiết bị phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế được xác định cho từng thời kỳ.

Thứ tư, thay đổi phương thức hỗ trợ vốn phát triển công nghệ

Trước đây các SMEs thường chỉ sử dụng phương pháp vay tín dụng với các điều kiện thế chấp, tín chấp. Phương thức vay này vừa hạn chế khả năng huy động vốn tín dụng ngân hàng của các SMEs lại vừa tạo ra khe hở. Do đó, phải đa dạng hoá các phương thức hỗ trợ để giải quyết ách tắc trong khâu chuyển giao vốn đầu tư tín dụng Nhà nước tới SMEs. Các phương pháp này bao gồm:

- Hình thức quỹ nghiên cứu phát triển (R&D), chuyển giao thiết bị công nghệ trên cơ sở sử dụng bộ phận cho ngân sách cho nghiên cứu khoa học- công nghệ doanh nghiệp (trong điều kiện cho phép, cần thành lập ngân hàng tín dụng nghiên cứu khoa học công nghệ). Nguồn vốn từ quỹ này sẽ hỗ trợ cho hoạt động nghiên cứu triển khai, chuyển giao công nghệ, tổ chức nghiên cứu khoa học công nghệ cho SMEs.

- Ứng dụng phát triển mô hình Nhà nước tổ chức hoạt động thu đổi thiết bị công nghệ cũ, bán trả góp thiết bị công nghệ mới cho SMEs. Theo phương thức này, hệ thống ngân hàng thương mại sẽ tài trợ vốn trả góp cho các đơn vị thương mại thiết bị công nghệ và các đơn vị thương mại giao dịch trực tiếp với các SMEs với hai nội dung : thu mua thiết bị cũ và bán trả góp thiết bị mới.

Ngoài ra, Nhà nước cần đẩy mạnh việc hỗ trợ thông tin cho các SMEs như thông tin thị trường công nghệ, các thông tin trợ giúp về mặt kỹ thuật, đào tạo.... để các SMEs lựa chọn được công nghệ thích hợp. Bên cạnh đó, cũng cần giảm bớt chi phí liên lạc viễn thông quốc tế và chi phí truy cập Internet để khuyến khích các doanh nghiệp chủ động tìm hiểu thông tin về công nghệ trên thế giới (hiện nay cước điện thoại và cước viễn thông ở Việt Nam là một trong những nơi cao nhất thế giới). Thứ năm, phát triển mô hình vườn ươm công nghệ để nuôi dưỡng các doanh nghiệp nghiên cứu khoa học- công nghệ, các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghệ cao, thực hiện các trợ giúp cần thiết để các doanh nghiệp này phát triển.

Sau khi doanh nghiệp đã có đủ khả năng cạnh tranh sẽ đưa ra khỏi vườn ươm và tiếp tục “ươm tạo” các doanh nghiệp khác.

2.6 Nâng cao năng lực tài chính

Có thể nói hiện nay, vốn là một trong những vấn đề nan giải nhất đối với các SMEs của cả Việt Nam lẫn Hàn Quốc. Nhiều doanh nghiệp đang lâm vào tình trạng thiếu vốn trầm trọng, phải bỏ lỡ nhiều cơ hội kinh doanh. Vì thế nâng cao năng lực về tài chính là một trong những chính sách trọng tâm cần giải quyết trong thời gian tới.

Về phía doanh nghiệp, các SMEs Hàn Quốc luôn nỗ lực để lành mạnh hóa tình hình tài chính của mình, giúp tạo thiện cảm và cho phép hình thành mối quan hệ hợp tác tốt đẹp giữa doanh nghiệp với các tổ chức tín dụng, đặc biệt là các ngân hàng.

Tuy nhiên, ở Việt Nam, vấn đề về minh bạch và lành mạnh hóa tài chính còn yếu kém. Hầu như những thông tin về tài chính doanh nghiệp đều không rõ ràng và ít được công bố rộng rãi. Ngay cả bản thân nhân viên trong doanh nghiệp nhiều khi cũng không nắm được tình hình tài chính của công ty mình. Tuy nhiên, đã đến lúc SMEs cần có sự công khai rõ ràng tình hình tài chính của mình.

Thứ nhất, các khoản chi tiêu hay thu nhập cần phải ghi chép tỉ mỉ, kỹ lưỡng, có phiếu thu, chi riêng. Người làm kế toán phải là người có trình độ chuyên môn, có khả năng lập sổ kế toán để tính toán chính xác khoản doanh thu, lợi nhuận trước thuế cũng như sau thuế của doanh nghiệp.

Thứ hai, các doanh nghiệp cần áp dụng các chuẩn mực kế toán quốc tế, thay đổi hệ thống kế toán của mình từ chế độ kế toán đơn lẻ sang chế độ kế toán tập trung để tránh trường hợp bỏ sót.

Thứ ba, tích cực phối hợp cộng tác cùng các tổ chức tài chính tín dụng hay Chính phủ, cung cấp thông tin cho họ trong các chương trình điều tra doanh nghiệp trên quy mô cả nước. Thông qua đây, từng doanh nghiệp sẽ có thể đánh giá được vị thế của mình, tăng cường các chính sách cạnh tranh lành mạnh. Đặc biệt với các doanh nghiệp gặp khó khăn có thể xin hưởng một số chính sách cấp vốn vay ưu đãi hay giảm thuế của Nhà nước... Các doanh nghiệp phát triển tốt có cơ hội nhận được các khoản đầu tư từ liên doanh nước ngoài...

Về phía Nhà nước, cần thực hiện các giải pháp hỗ trợ như:

- Thực hiện chính sách lãi suất linh hoạt: Một trong những điều quan tâm của doanh nghiệp khi đến vay vốn ngân hàng là lãi suất bởi lãi suất ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận mang lại cho doanh nghiệp. Do vậy, mức lãi suất phải hợp lý, hình thành trên cơ sở thoả thuận với khách hàng, hài hoà lợi ích ngân hàng và doanh nghiệp. Đối với SMEs, nên thực hiện lãi suất dựa vào độ tín nhiệm của doanh nghiệp, xu thế sản xuất kinh doanh trên thị trường...

- Góp vốn đầu tư, liên doanh, liên kết với SMEs: Để mở rộng tín dụng, ngân hàng không nhất thiết chỉ cho doanh nghiệp vay vốn mà có thể lựa chọn xem doanh nghiệp nào làm ăn hiệu quả, có triển vọng thì ngân hàng có thể thoả thuận ký hợp đồng liên doanh, liên kết với những doanh nghiệp đó để cùng sản xuất, kinh doanh. Như vậy, ngân hàng không những mở rộng được tín dụng mà còn có điều kiện xâm nhập thị trường từ đó tìm ra được những mặt mạnh, yếu của khách hàng, đồng thời vừa trực tiếp giám sát, quản lý vốn cho vay vừa tạo ra thu nhập cao do trực tiếp là người đầu tư vốn. Về phía doanh nghiệp, do có sự tư vấn, cộng tác của phía ngân hàng, doanh nghiệp sẽ làm ăn có hiệu quả hơn, hạn chế được rủi ro cho khách hàng và ngân hàng. Cách thức này là rất hiệu quả và cũng trong khả năng đầu tư, quản lý của ngân hàng vì các SMEs thường có quy mô về vốn và phạm vi hoạt động không lớn.

- Cho vay có đảm bảo bằng các khoản sẽ thu của doanh nghiệp: Các doanh nghiệp bán hàng nhưng do người mua chưa kịp thanh toán, dẫn đến làm cho doanh nghiệp bị thiếu vốn lưu động. Trong trường hợp này, ngân hàng có thể giúp doanh nghiệp thiếu vốn tạm thời bằng cách cho vay theo tỷ lệ nào đó trên khoản sẽ thu. Tỷ lệ này cao hay thấp phụ thuộc vào chất lượng các khoản nợ mà được ngân hàng thẩm định một cách chặt chẽ.

- Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng: Ngân hàng cho vay chấp thuận cho khách hàng được sử dụng số vốn vay trong phạm vi hạn mức tín dụng để thanh toán tiền mua hàng hoá, dịch vụ và rút tiền mặt tại máy rút tiền tự động. Nghiệp vụ này còn mới và chưa được thực hiện rộng rãi. Trong tương lai cùng với việc hiện đại hoá công nghệ ngân hàng, cần tăng cường hình thức cho

vay nhằm mở rộng đầu tư tín dụng và nâng cao năng lực sử dụng công nghệ của NHTM đối với khách hàng.

- Linh hoạt hình thức cho vay có đảm bảo: Năng lực của các SMEs thường lớn hơn so với tài sản thực có của họ. Do đó, muốn mở rộng tín dụng đồng thời tạo hướng cho các doanh nghiệp, ngân hàng cần mạnh dạn áp dụng hình thức cho vay đảm bảo bằng hàng hoá, dịch vụ. Ngân hàng có thể giải quyết cho vay căn cứ vào tính khả thi của phương án sản xuất kinh doanh và khả năng cạnh trang của sản phẩm đó trên thị trường. Tài sản bảo đảm tiền vay chỉ là phương tiện cuối cùng, là nguồn trả nợ khi rủi ro xảy ra, do vậy ngân hàng cần linh hoạt áp dụng hình thức thế chấp, tín chấp, bão lãnh… sao cho phù hợp.

- Nâng cao chất lượng thẩm định tín dụng khi cho vay SMEs: Chất lượng và hiệu quả tín dụng phụ thuộc phần lớn vào trình độ cán bộ tín dụng của ngân hàng. Vì vậy, trình độ cán bộ tín dụng phải được chuẩn hoá, không ngừng nâng cao. Ngân hàng phải có nhiều chương trình đào tạo dưới nhiều hình thức: bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn, tổ chức tập huấn, thi tình huống, đặc biệt là trình độ thẩm định dự án, phương án vay vốn, lựa chọn khách hàng, vận dụng các chế độ thể lệ tín dụng đã ban hành. Đội ngũ cán bộ thẩm định phải gồm những người am hiểu chuyên ngành, có kinh nghiệm tư vấn dự án, phương án sản xuất kinh doanh cho SMEs. Mặt khác, ngân hàng phải có các chương trình phối, kết hợp chặt chẽ với các bên liên quan (ngoài ngân hàng) để thẩm định chính xác các dự án trước khi cho vay.

- Thực hiện chính sách khách hàng đặc biệt đối với các SMEs: Đổi mới là phải tạo mọi điều kiện để phục vụ khách hàng nhanh hơn, chất lượng hơn, giúp khách hàng cạnh tranh lành mạnh, qua đó thu hút nhiều khách hàng có uy tín đến giao dịch, mở rộng thị phần tín dụng của ngân hàng. Ngân hàng phải thường xuyên phân loại khách hàng- doanh nghiệp theo tiêu chí nhất định để có chính sách ưu đãi nhất định đối với các SMEs. Những doanh nghiệp có uy tín, có quan hệ tín dụng thường xuyên, trả nợ gốc và lãi đúng hạn thì phải được hưởng ưu đãi như giảm lãi suất tiền vay, tăng lãi suất tiền gửi, giảm phí dịch vụ...

- Đẩy nhanh việc thành lập và vận hành quỹ bảo lãnh tín dụng tại các địa phương, giúp SMEs có thể vay vốn khi gặp khó khăn về tài sản thế chấp. Quỹ bảo lãnh tín dụng cho các khoản vay ngắn hạn , trung hạn và dài hạn đối với các dự án kinh doanh có hiệu quả.

Về phương án huy động vốn cho quỹ, kinh nghiệm của Hàn Quốc cho thấy phần lớn các quỹ bảo lãnh tín dụng đều có một tỷ lệ nhất định từ ngân sách Nhà nước, số còn lại huy động từ ngân hàng và các nguồn tài chính khác.Trong trường hợp cụ thể của nước ta hiện nay, Chính phủ nên cân nhắc bố trí một phần vốn hoạt động của quỹ từ ngân sách Nhà nước và phần còn lại có thể huy từ nguồn vốn của các tổ chức nước ngoài như IMF, UNDP, ...

- Mở rộng hình thức tín dụng thuê mua: Mở rộng hình thức tín dụng thuê mua là giải pháp hữu hiệu giúp các doanh nghiệp khắc phục khó khăn về vốn để đầu tư đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh.Với hình thức này các ngân hàng thương mại tháo gỡ được tình trạng “đóng băng” về vốn và đảm bảo an toàn hơn hình thức thế chấp tài sản. Tín dụng thuê mua là loại hình tín dụng trung gian dài hạn, người có nhu cầu vay vốn không nhận tiền mua sắm thiết bị, tài sản cho mình mà nhận trực tiếp tài sản cho phù hợp với nhu cầu sử dụng. Người đi thuê sẽ thanh toán bằng tiền thiết bị đó theo phương thức trả dần và sau một thời gian sử dụng nhất định có thể mua lại chính tài sản đó.

- Thị trường hoá các khoản nợ: Hiện nay các SMEs chiếm dụng vốn lẫn nhau rất nhiều khiến cho doanh nghiệp rơi vào tình trạng thiếu vốn giả tạo. Nhiều khi ngân hàng thương mại cũng phải đeo đẳng các khoản nợ cho vay mà không có cách gì thu hồi vốn trước ngày đáo hạn hoạc đã quá hạn.Việc thị trường hoá các khoản nợ thực chất sẽ giúp cho các SMEs thoát khỏi tình trạng thiếu vốn do bị chiếm dụng. Thương phiếu đã được dùng để ghi giá trị các khoản nợ và được coi là công cụ tín dụng thương mại có tác dụng làm lưu động hoá các khoản nợ ở nhiều nước trên thế giới. Ở Việt Nam, hầu hết các SMEs vẫn còn xa lạ với thương phiếu và chưa có thói quen sử dụng nó như một công cụ thanh toán và vay nợ trong các hoạt động kinh doanh của mình. Trong tương lai, cần đẩy mạnh việc sử dụng công cụ này để giúp các doanh nghiệp thoát khỏi tình trạng thiếu vốn do bị chiếm dụng như trên.

- Tạo ra một “sân chơi bình đẳng” để tất cả hình doanh nghiệp tuân thủ các thể lệ tín dụng và được hưởng ưu đãi và điều kiện tín dụng của Nhà nước như nhau. Về vấn đề này, điều rất quan trọng mà cuộc khủng hoảng tài chính ở các nước Đông Nam Á đã chứng minh một cách sinh động là phải đảm bảo để tất cả các khoản tín dụng được thực hiện trên cở sở phân tích tài chính chứ không phải bởi các quyết định chính trị, bao gồm cả vốn vay cho các SMEs. Ngoài ra, ngân hàng có thể tư vấn cho SMEs cách thức xây dựng và thực hiện kế hoạch kinh doanh khả thi, quản lý tốt đồng vốn. Lúc đó ngân hàng mới thực sự trở thành người bạn đồng hành cùng chia sẻ các khó khăn với SMEs nhằm xoá bỏ được tình trạng hiện nay là ngân hàng không giải ngân được trong khi các SMEs vẫn trong tình trạng thiếu vốn.

2.7 Xây dựng và phát triển thương hiệu doanh nghiệp

Khác với Mỹ, châu Âu và Nhật Bản đã có nhiều thập niên kinh nghiệm về xây dựng và quản lý thương hiệu, các công ty Hàn Quốc coi thương hiệu là lĩnh vực tương đối mới mẻ. Tuy nhiên, nhận thức về thương hiệu ở Hàn Quốc đã tiến dần qua ba giai đoạn chính. Trong giai đoạn đầu, doanh nghiệp coi thương hiệu chỉ như là tên gọi của sản phẩm. Quan niệm này không hoàn toàn sai bởi vì tên doanh nghiệp, tên sản phẩm tự chúng đã rất quan trọng; nhưng dĩ nhiên thương hiệu không chỉ là cái tên. Giai đoạn thứ hai là khi các doanh nghiệp có ý thức về thương hiệu và bản sắc của mình. Đây là lúc công ty bắt đầu đánh giá cao ý nghĩa của thương hiệu; bắt đầu thuê mướn các công ty tư vấn về văn hóa doanh nghiệp thiết kế thương hiệu và xây dựng quan niệm thương hiệu cho mình. Và giai đoạn cuối là việc chấp nhận thương hiệu như một tài sản chủ yếu của doanh nghiệp. Khái niệm “vốn thương hiệu” có nghĩa là thương hiệu có giá trị quy thành tiền, phải được coi trọng như mọi thứ khác trong bảng cân đối tài sản của công ty. 21

Như vậy, rõ ràng nhận thức về vai trò và ý nghĩa của việc xây dựng và phát triển thương hiệu trong các doanh nghiệp Hàn Quốc đã có những bước phát triển rõ rệt. Noi theo tấm gương đó, các SMEs Việt Nam cũng cần quan tâm, chú trọng hơn đến vấn đề này. Để xây dựng và phát triển thương hiệu:


21 Thời báo Kinh tế Sài Gòn (22/04/2008), Xây dựng thương hiệu: Kinh nghiệm Hàn Quốc

Xem tất cả 124 trang.

Ngày đăng: 05/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí