Kinh doanh du lịch di sản văn hóa ở Việt Nam - 4

Khoảng trống về phạm vi nghiên cứu

Các nghiên cứu về KDDLDSVH ở Việt Nam tiếp cận dưới góc độ kinh doanh du lịch và cung - cầu du lịch mà tác giả được biết đến hầu hết đều nghiên cứu về các quốc gia, các vùng khác ngoài Việt Nam, rất hiếm các tài liệu đề cập đến, hay phân tích, nghiên cứu trường hợp Việt Nam. Do đó, tác giả mạnh dạn tiếp cận các vấn đề và thực hiện nghiên cứu cho trường hợp của Việt Nam. Trong phạm vi luận án này, tác giả sẽ nghiên cứu các vấn đề quan trọng, một là tiềm năng kinh doanh DLDSVH ở Việt Nam bao gồm tiềm năng về cầu du lịch di sản văn hóa và tiềm năng về cung du lịch di sản văn hóa. Hai là, thực trạng kinh doanh DLDSVH nói chung ở Việt Nam cụ thể là các hình thức KDDLDSVH ở Việt Nam, những đóng góp cho địa phương, doanh thu của ngành, số lượng việc làm, số lượng khách du lịch, số lượng các doanh nghiệp kinh doanh trong ngành, chất lượng các dịch vụ được cung cấp. Trong đó, chất lượng các dịch vụ được cung cấp sẽ được phân tích và làm rõ thông qua việc đánh giá sự hài lòng của khách du lịch tại các điểm/ khu vực du lịch di sản văn hóa. Bên cạnh đó, các nghiên cứu về Hội An chủ yếu dưới góc độ văn hóa – lịch sử học hay du lịch học, còn các nghiên cứu về KDDLDSVH là không nhiều. Vì vậy, luận án sẽ tập trung nghiên cứu sâu thực trạng KDDLDSVH ở điểm di sản điển hình là Phố cổ Hội An.

Tiểu kết chương 1

DLDSVH là một ngành kinh doanh đầy hấp dẫn và nhu cầu đi DLDSVH của cộng đồng trên thế giới ngày càng gia tăng. Các nghiên cứu về KDDLDSVH đã có từ hơn nửa thế kỷ nay tuy nhiên, các nghiên cứu ở trong nước vẫn còn rất hạn chế và ít ỏi. Trong chương 1, tác giả đã tổng quan được một số các nghiên cứu về kinh doanh du lịch, lý thuyết và cơ sở lý luận về DLDSVH hay sự hài lòng của khách du lịch về chất lượng dịch vụ DLDSVH cũng như các kinh nghiệm thực tế của các nước trên thế giới về KDDLDSVH. Qua đó, tác giả đã chỉ ra được các khoảng trống trong nghiên cứu về chất lượng dịch vụ DLDSVH, tiềm năng và thực trạng của KDDLDSVH ở Việt Nam hiện nay. Đây cũng chính là một trong những cơ sở để tác giả có thể xây dựng được khung phân tích và mô hình nghiên cứu trong chương 2 của luận án.

Chương 2

CƠ SỞ KHOA HỌC VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ KINH DOANH DU LỊCH DI SẢN VĂN HÓA

2.1. Cơ sở lý luận về kinh doanh du lịch di sản văn hóa

2.1.1. Các khái niệm cơ bản

2.1.1.1. Du lịch, sản phẩm du lịch và thị trường du lịch

Du lịch: Tiếp cận trên góc độ người kinh doanh du lịch thì du lịch là quá trình tổ chức các điều kiện về sản xuất và phục vụ nhằm thỏa mãn, đáp ứng các nhu cầu của người đi du lịch. Các doanh nghiệp du lịch coi du lịch như là một cơ hội để bán các sản phẩm mà họ sản xuất ra, nhằm thỏa mãn các nhu cầu của khách (người đi du lịch), đồng thời thông qua đó đạt được mục đích số một của mình là tối đa hóa lợi nhuận (Nguyễn Văn Đính; Trần Thị Minh Hòa, 2006).

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 152 trang tài liệu này.

Theo Điều 3, mục 1, Luật Du lịch Việt Nam, 2017, du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên trong thời gian không quá 01 năm liên tục nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, nghỉ dưỡng, giải trí, tìm hiểu, khám phá tài nguyên du lịch hoặc kết hợp với mục đích hợp pháp khác.

Sản phẩm du lịch: Điều 3, mục 5, Luật Du lịch Việt Nam, 2017 nói “Sản phẩm du lịch là tập hợp các dịch vụ trên cơ sở khai thác giá trị tài nguyên du lịch để thỏa mãn nhu cầu của khách du lịch”.

Kinh doanh du lịch di sản văn hóa ở Việt Nam - 4

Thị trường du lịch: Dưới góc độ của các nhà kinh doanh du lịch thì thị trường du lịch là các nhóm khách hàng đang có mong muốn và sức mua sản phẩm du lịch nhưng chưa được đáp ứng. Thị trường du lịch có thể hiểu là bộ phận của thị trường chung, một phạm trù của sản xuất và lưu thông hàng hóa, dịch vụ du lịch, phản ánh toàn bộ quan hệ trao đổi giữa người mua và người bán, giữa cung và cầu và toàn bộ các mối quan hệ, thông tin kinh tế, kỹ thuật gắn với mối quan hệ đó trong lĩnh vực du lịch (Nguyễn Văn Lưu, 1998).

2.1.1.2. Dịch vụ du lịch, chất lượng dịch vụ và sự hài lòng của khách hàng

Dịch vụ du lịch: được tạo thành từ một mạng lưới các mối quan hệ phức tạp giữa nhiều nhà cung cấp, sản phẩm du lịch, tổ chức tiếp thị điểm đến, công ty lữ hành và đại lý du lịch, trong số nhiều các đơn vị tổ chức khác. Theo Hệ thống phân

loại công nghiệp Bắc Mỹ (NAICS), dịch vụ du lịch bao gồm các doanh nghiệp và chức năng hỗ trợ lập kế hoạch và bảo lưu các thành phần của trải nghiệm của du khách (Government of Canada, 2014; Bccampus, 2014).

Các dịch vụ liên quan đến du lịch và lữ hành bao gồm các dịch vụ được cung cấp bởi các khách sạn và nhà hàng (bao gồm cả phục vụ ăn uống), các công ty du lịch và dịch vụ điều hành tour du lịch, dịch vụ hướng dẫn du lịch và các dịch vụ liên quan khác (WTO, 2017).

Dịch vụ du lịch là việc cung cấp các dịch vụ về lữ hành, vận chuyển, lưu trú, ăn uống, vui chơi giải trí, thông tin, hướng dẫn và những dịch vụ khác nhằm đáp ứng nhu cầu của khách du lịch (Luật Du lịch Việt Nam, 2005, 2017).

Chất lượng dịch vụ: Chất lượng dịch vụ là một khái niệm cơ bản về tiếp thị dịch vụ đại diện cùng với giá trị dịch vụ nhận thức được các yếu tố được khách hàng sử dụng để đánh giá các nhà cung cấp dịch vụ của họ (Cronin et al., 2000; Brady et al., 2001). Đã đạt được sự đồng thuận về việc nhận thức được chất lượng dịch vụ là một thái độ hoặc đánh giá toàn cầu về tính ưu việt hoặc kém hơn của một dịch vụ (Gronroos, 1982; Parasuraman et al., 1988; Cronin và Taylor, 1992; Teas, 1993).

Parasuraman, Zeithaml, & Berry (1988) cho rằng chất lượng dịch vụ là một sự khác biệt lớn và là vũ khí cạnh tranh mạnh nhất của các tổ chức dịch vụ (Giovanis, Apostolos; Athanasopoulou, Pinelopi và Tsoukatos, Evangelos, 2013).

Chất lượng dịch vụ được coi là sự kết hợp của các trải nghiệm khác nhau thông qua sự tương tác giữa khách hàng, nhân viên và môi trường tổ chức (Masayuki Yoshida; Jeffrey D James, 2011). Chất lượng dịch vụ được công nhận là điều kiện tiên quyết quan trọng để thiết lập và duy trì mối quan hệ thỏa mãn với khách hàng có giá trị (Lassar và cộng sự, 2000, tr.244). Nhiều nhà nghiên cứu tin rằng chất lượng dịch vụ là một khái niệm khó nắm bắt, và có những tranh luận đáng kể giữa các nhà nghiên cứu về cách khái niệm hóa nó. Đó là một hiện tượng chủ quan dựa trên nhận thức cá nhân của khách hàng (Schneider, B. & White, S.S., 2004), và điều này giải thích tại sao có nhiều định nghĩa được quy cho chất lượng dịch vụ (Radomir, L., Wilson, A., Scridon, A. M., 2011). Chất lượng dịch vụ vẫn là một yếu tố quan trọng trong sự thành công của hầu hết các doanh nghiệp (Daniel Kasser Tee; Alexander Preko; Evans Tee, 2018).

Theo sự cân nhắc của khách hàng, thời gian chờ đợi dịch vụ quá dài sẽ tạo ra tác động tiêu cực đến khách hàng về tinh thần dịch vụ. Càng ít thời gian họ càng phải nhận được dịch vụ được hiểu là chất lượng dịch vụ và điều này sẽ là mối quan tâm chính đối với một công ty để cải thiện dịch vụ của họ và giữ chân khách hàng (Ashok Sarkara, 2010). Kumar (2008) lập luận rằng chất lượng dịch vụ được đóng góp không chỉ bởi chính dịch vụ mà còn cả quá trình sản xuất, thời gian sản xuất, hành vi của nhân viên đối với khách hàng, quy trình giao hàng và thời gian chờ đợi để chấp nhận dịch vụ. Với việc cung cấp dịch vụ cuối cùng, cả quy mô công ty và quy trình hoạt động đều có đóng góp lớn trong việc đo lường chất lượng dịch vụ (Julie Paquettea, 2009). Chất lượng dịch vụ có thể được mô tả là quá trình đàm phán giữa khách hàng và nhà cung cấp dịch vụ trong đó việc phân bổ và quản lý tài nguyên được thực hiện như nhau để đáp ứng lợi ích của cả hai bên vì nhận thức của khách hàng về chất lượng dịch vụ và sự hài lòng trong công việc của nhân viên có liên quan với nhau (LA Guedesa, 1998). Đối với một số dịch vụ mà không có sự giúp đỡ của khách hàng, việc sản xuất dịch vụ là không thể. Sự tham gia của khách hàng là thực tế rất quan trọng để cung cấp dịch vụ.

Sự tham gia của cả nhà cung cấp dịch vụ và khách hàng tại một thời điểm trong quy trình cung cấp dịch vụ cũng có tác động lớn đến việc đánh giá dịch vụ của khách hàng (Sarmin Sultana; Shohel Rana, 2010).

Chất lượng dịch vụ được coi là yếu tố quyết định khả năng cạnh tranh (Lewis, 1989), ảnh hưởng đến ý định mua lại của cả khách hàng hiện tại và khách hàng tiềm năng. Nghiên cứu thị trường đã chỉ ra rằng khách hàng không hài lòng với một dịch vụ sẽ tiết lộ kinh nghiệm của họ cho hơn ba người khác (Horovitz, 1990). Và (Grönroos, 1984), nói rằng một khái niệm đúng đắn về chất lượng dịch vụ nên dựa trên khách hàng.

Chất lượng dịch vụ được xác định bởi sự khác biệt giữa mong đợi của khách hàng về hiệu suất của nhà cung cấp dịch vụ và đánh giá của họ về dịch vụ mà họ nhận được. Theo cách này, mối liên hệ giữa chất lượng dịch vụ và sự hài lòng của khách hàng đã nổi lên như một chủ đề quan tâm và chiến lược quan trọng (Bolton và Drew, 1991; Cronin và Taylor, 1992). Nhìn chung, nghiên cứu trong lĩnh vực này cho thấy chất lượng dịch vụ là một chỉ số quan trọng về sự hài lòng của khách hàng

(Newman, 2001). Mặt khác, các nhà nghiên cứu cũng tập trung rằng đã có cuộc tranh luận đáng kể về các kích thước cơ bản của chất lượng dịch vụ cũng như việc đo lường các kích thước này. Một số nhà nghiên cứu đã cung cấp danh sách các yếu tố quyết định chất lượng. Johnston (1997, tr. 111) cũng đề cập: Có lẽ, phương thức được biết đến nhiều nhất về chất lượng dịch vụ đến từ hai nhóm các nhà nghiên cứu, Parasuraman và các đồng nghiệp ở Hoa Kỳ và Johnston và các đồng nghiệp ở Vương quốc Anh” (Mohammed Alamgir, Mohammad Shamsuddoha, 2004).

Sự hài lòng của khách hàng: Sự hài lòng của khách du lịch rất quan trọng đối với tiếp thị điểm đến thành công vì nó ảnh hưởng đến việc lựa chọn điểm đến, tiêu thụ sản phẩm và dịch vụ và quyết định quay trở lại (Kozak, M., & Rimmington, M, 2000). Một số nhà nghiên cứu đã nghiên cứu sự hài lòng của khách hàng và cung cấp các lý thuyết về chủ nghĩa du lịch. Ví dụ, mô hình khoảng cách kỳ vọng - nhận thức của Parasuraman, Zeithaml và Berry (1985), lý thuyết xác nhận kỳ vọng của Oliver (B. King, A. Pizam, A. Milman, 1993), mô hình đồng đẳng của Sirgy (Chon,

K. S., & Olsen, M. D. , 1991) đã được sử dụng để đo lường sự hài lòng của khách du lịch với các điểm đến du lịch cụ thể. Các nhà nghiên cứu cũng đã xem xét so sánh các tiêu chuẩn được sử dụng trong chất lượng dịch vụ và sự hài lòng và cung cấp các điểm thảo luận tuyệt vời về các phương pháp khác nhau về chất lượng dịch vụ và sự hài lòng (Ekinci, Y., Riley, M., & Chen, J., 2001). Tuy nhiên, bất kể bản chất của các biện pháp hài lòng là gì, lý thuyết về sự không xác nhận kỳ vọng đã nhận được các lý thuyết dựa trên sự hài lòng được chấp nhận rộng nhất bởi vì nó được áp dụng rộng rãi (Jin Huh; Muzaffer Uysal, 2004).

Các tài liệu cho thấy sự hài lòng của khách hàng là rất quan trọng để có được thành công kinh doanh lâu dài (Zeithaml, V. A., Berry, L. L. & Parasuraman, A. , 1996). Để bảo vệ thị phần/ lợi nhuận, các tổ chức cần vượt qua các đối thủ cạnh tranh thông qua việc cung cấp các sản phẩm hoặc dịch vụ chất lượng cao để đảm bảo sự hài lòng của khách hàng (Tsoukatos, E. & Rand, G., 2006). Hơn nữa, Oliver (1980) chỉ ra rằng sự hài lòng của khách hàng đòi hỏi phải đáp ứng đầy đủ mong đợi của khách hàng về sản phẩm và dịch vụ.

Khi hiệu suất phù hợp hoặc vượt quá mong đợi của khách hàng đối với dịch vụ, họ hài lòng. Nếu không, họ không hài lòng (Munusamy, J., Chelliah, S. & Mun, H., 2010). Hơn nữa, một số nghiên cứu thường xác định sự hài lòng và không hài

lòng của khách hàng là những đánh giá của khách hàng về sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp trong việc đáp ứng kỳ vọng (Chidambaram, V. Ramachandran, A., 2012). Khi kỳ vọng được đáp ứng, kết quả hài lòng và kỳ vọng không được đáp ứng dẫn đến sự không hài lòng (Oliver, 1980). (Lau, M, Cheung, R, Lam, A, & Chu, Y, 2013) chỉ ra rằng thái độ của sự hài lòng của khách hàng xuất phát từ những gì khách hàng tin rằng sẽ xảy ra (dự đoán) so với tình huống khi những gì họ tin không phải là trường hợp (hiệu suất cảm nhận). Ngoài ra, sự hài lòng củng cố nhận thức chất lượng và dẫn đến mua lặp lại. (Muslim A. & Isa, Z.,, 2005). Đúng là việc cung cấp dịch vụ chất lượng cao cho khách hàng của công ty mang đến cơ hội để phân biệt chúng trong thị trường cạnh tranh (Osman M. Karatepe; Ugur Yavas; Emin Babakus, 2005).

Bên cạnh đó, (Zaim, 2010) nhận thấy rằng tính hữu hình, độ tin cậy và sự đồng cảm có ý nghĩa đối với sự hài lòng của khách hàng. Một số nghiên cứu đã xác định các khía cạnh của chất lượng dịch vụ là tiền đề của sự hài lòng của khách hàng (Lau et al., 2013; Saghier, & Nathan, 2013). Khách hàng đặt dịch vụ ảnh hưởng đáng kể đến sự hài lòng và sự hài lòng của khách hàng là kết quả của lòng trung thành (Awan et al., 2011; Al-Azzam, 2015).

2.1.1.3. Di sản văn hóa và Du lịch di sản văn hóa

Di sản văn hóa: ICOMOS (1980) định nghĩa di sản là “toàn bộ các sáng tạo và sản phẩm kết hợp của thiên nhiên và con người, trong sự toàn vẹn của chúng, tạo nên môi trường mà chúng ta sống trong không gian và thời gian. Di sản là một thực tế, là sự sở hữu của cộng đồng và là một gia tài phong phú mà có thể được chuyển tiếp, lôi cuốn sự tham gia và công nhận của chúng ta.” Di sản là một khái niệm rộng và bao gồm môi trường tự nhiên cũng như văn hóa. Nó bao gồm cảnh quan, địa điểm lịch sử, địa điểm và môi trường xây dựng, cũng như đa dạng sinh học, bộ sưu tập, thực hành văn hóa quá khứ và tiếp tục, kiến thức và kinh nghiệm sống. Nó ghi lại và thể hiện các quá trình phát triển lịch sử lâu dài, hình thành nên bản sắc đa dạng của các quốc gia, khu vực, bản địa và địa phương và là một phần không thể thiếu của cuộc sống hiện đại. Nó là một điểm tham chiếu năng động và là công cụ tích cực cho sự phát triển và thay đổi. Di sản cụ thể và ký ức tập thể của mỗi địa

phương hay cộng đồng là không thể thay thế và là nền tảng quan trọng cho sự phát triển, cả hiện tại và tương lai (ICOMOS, 1999).

Trong khi đó, Đạo luật của Tổ chức Di sản Văn hóa Iran ICHO (1988) nói rằng “di sản văn hóa bao gồm các tài nguyên còn lại từ quá khứ là bằng chứng cho sự đi qua của loài người thông qua lịch sử; nhận ra những tài nguyên này, giúp chúng ta có thể tìm hiểu về bản sắc và dòng tiến hóa văn hóa của loài người, và theo cách này để tạo ra một bối cảnh để tiếp nhận những bài học.” UNESCO (1989) nói rằng “di sản văn hóa có thể được định nghĩa là toàn bộ các dấu hiệu vật chất – có thể thuộc nghệ thuật hay biểu tượng – được truyền lại từ quá khứ cho mỗi nền văn hóa và do đó, cho toàn thể nhân loại. Là một phần cấu thành sự chân thực và phong phú của bản sắc văn hóa, như là một tài sản kế thừa thuộc về nhân loại, di sản văn hóa mang đến cho mỗi vùng đất cụ thể những đặc trưng có thể nhận diện riêng biệt của nó và là kho tàng kinh nghiệm của con người. Và bởi vậy việc bảo tồn và quảng bá về di sản văn hóa là nền tảng của bất kỳ một chính sách văn hóa nào (dẫn theo Jokilehto, 2005).

Di sản văn hóa đề cập đến việc xã hội đương đại sử dụng quá khứ. Di sản văn hóa của chúng ta góp phần vào việc định hình các khuôn mẫu quốc gia và bản sắc khu vực và nó là sự phản ánh hiện đại hoặc hậu hiện đại của quá khứ. Ở châu Âu nó thường được liên kết với các trung tâm thành phố cổ. Ở Bắc Mỹ, nó được liên kết chặt chẽ với các công viên quốc gia, bảo tàng và phòng trưng bày trong khu vực đô thị. Ở Úc và New Zealand, nó cũng gắn liền với văn hóa, bản sắc và danh lam thắng cảnh bản địa (Boyd, S.W. & Timothy, D.J., 2003). Di sản văn hóa là một phần của quá khứ mà chúng ta chọn lựa trong hiện tại cho các mục đích đương đại, có thể là kinh tế, văn hóa, chính trị hoặc xã hội (Khakzad, 2015). Di sản có nhiều hình dạng, ở các dạng hữu hình như địa điểm, tòa nhà, cảnh quan hoặc vô hình, như ký ức, cảm xúc, giá trị và tập quán, cũng như việc sử dụng di sản, từ mục đích xây dựng quốc gia đến việc marketing các địa điểm. Di sản thường đại diện cho một hiện tượng trong một diễn ngôn lịch sử truyền thống nhưng gần đây, ngày càng nhiều hơn, xuất hiện trong các ngoại vi; cũng thường phát ra từ các nhóm ở rìa của bài diễn văn truyền thống đó. Việc sử dụng di sản xảy ra ở các phạm vi khác nhau và có ý nghĩa như một phương tiện cho các mục đích chính trị, văn hóa và kinh doanh, cũng như

giáo dục và giải phóng. Do đó, làm thế nào để làm sáng tỏ về di sản để hiểu được ý nghĩa của nó đối với các nhóm đối tượng khác nhau là nhiệm vụ rất quan trọng (Tomas Nilson & Kristina Thorell, 2018).

Thuật ngữ “Di sản văn hóa” được thay đổi đáng kể trong những thập niên gần đây, một phần nhờ vào các tư duy và cách thức của UNESCO đã đưa ra. Di sản văn hóa không dừng lại ở đền chùa hay tập hợp các đối tượng liên quan. Nó cũng bao gồm các truyền thống hay các hoạt động sống được kế thừa từ tổ tiên chúng ta và truyền lại cho con cháu chúng ta như truyền miệng, nghệ thuật biểu diễn, tập quán xã hội, các nghi lễ, các sự kiện lễ hội, các kiến thức, các hoạt động có liên quan đến thiên nhiên và vũ trụ hay các kiến thức, kỹ năng để sản xuất đồ thủ công truyền thống (UNESCO, n.d). Theo IFLA (2020), Di sản văn hóa bao gồm vật thể và phi vật thể, tự nhiên và văn hóa, các tài sản động và bất động sản được kế thừa từ quá khứ. Nó vô cùng giá trị đối với hiện tại và tương lai của cộng đồng. Tiếp cận, bảo tồn và giáo dục về di sản văn hóa là điều cần thiết cho sự tiến hóa và văn hóa của loài người.

Du lịch di sản văn hóa: Du lịch di sản được hiểu như hoạt động du lịch và ngành dịch vụ có liên quan đến di sản. Có một gắn kết quan trọng giữa di sản và du lịch (Perera, 2013). Vì vậy, khi chúng ta muốn xác định du lịch di sản, điều cần thiết là phải nhấn mạnh rằng đây là một hình thức du lịch dựa trên di sản, trong đó di sản là một trong những yếu tố trung tâm của sản phẩm du lịch và mặt khác nó cung cấp động lực lớn cho khách du lịch (Swarbrooke, 1994). Du lịch di sản thường được coi là du lịch văn hóa (Bob McKercher, Hilary Du Cros, 2002). Du lịch di sản đề cập tới việc du khách đến thăm những nơi có ý nghĩa truyền thống, lịch sử, văn hóa từ với mục đích học hỏi, tôn trọng đến mục đích giải trí (Nzama et al., 2005; Jascha M. Zeitlin và Steven W. Burr, 2011). Du lịch di sản và văn hóa có thể được coi là một hoạt động năng động được phát triển thông qua các trải nghiệm vật lý, tìm kiếm và tôn vinh những gì độc đáo và đẹp đẽ, được thể hiện bằng các giá trị và thuộc tính của chúng ta đáng để bảo tồn và kế thừa cho con cháu theo cách mà cộng đồng có thể tự hào về chúng (José G. Vargas-Hernández, 2012; Hall và Zeppel, 1992, tr.78). Hall và Zeppel (1990, tr.87) cho rằng, Du lịch di sản, cho dù dưới hình thức tham quan danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử, các tòa nhà hay tượng đài thì nó

cũng là du lịch trải nghiệm trong ý thức tìm kiếm sự giao thoa với thiên nhiên hay cảm giác về một phần lịch sử của điểm du lịch đó. Du lịch di sản là một từ đồng nghĩa của du lịch văn hóa, là du lịch trải nghiệm liên quan đến việc tham quan thắng cảnh ưa thích, các di tích lịch sử, các tòa nhà hay tượng đài và tìm kiếm sự giao thoa, gắn bó và sự kích thích đối với thiên nhiên hoặc cảm giác về một phần lịch sử của nơi đó. Phạm vi bên ngoài của hành trình đặc biệt, dựa trên những hoài niệm về quá khứ và mong muốn được trải nghiệm danh lam thắng cảnh và các hình thức văn hóa đa dạng. Nó bao gồm du lịch đến các lễ hội và các sự kiện văn hóa khác, tham quan các địa điểm và di tích, đi để nghiên cứu thiên nhiên, văn hóa dân gian hay nghệ thuật hành hương. Ashworth và Goodall (1990, p.162) nói rằng du lịch di sản là một ý tưởng hội tụ nhiều cảm xúc khác nhau, bao gồm hoài cổ, chủ nghĩa lãng mạn, niềm vui thẩm mỹ và cảm giác thuộc về thời gian và không gian (Marianna Sigala và David Leslie, 2005). Trong khi đó, Silberberg (1995) cho rằng DLDSVH là một công cụ phát triển kinh tế đạt được sự tăng trưởng kinh tế trong việc thu hút du khách từ bên ngoài cộng đồng địa phương, những người được thúc đẩy toàn bộ hoặc một phần bởi sự quan tâm đến lịch sử, nghệ thuật, khoa học hoặc lối sống/ di sản của một cộng đồng, khu vực, nhóm hoặc tổ chức.

Trong du lịch văn hóa, DLDSVH là một thành phần đặc biệt (Daniela L. Constantin and Constantin Mitrut, 2016). Và (Lord, 2002) cho rằng du lịch văn hóa như là “các chuyến thăm của những người từ bên ngoài cộng đồng địa phương đã làm động cơ thúc đẩy toàn bộ hoặc một phần bởi sự quan tâm đến các dịch vụ của một cộng đồng, khu vực, nhóm hoặc tổ chức có liên quan đến lịch sử, nghệ thuật, khoa học hoặc lối sống/ di sản”.

Quan điểm của các tổ chức, như Ủy ban Quốc gia về Bảo tồn Lịch sử, Hoa Kỳ (The National Trust for Historic Preservation - NTHP) định nghĩa du lịch di sản (đôi khi được gọi là DLDSVH) là đi du lịch để “trải nghiệm những địa điểm, di tích, di vật và các hoạt động mà chúng mô tả một cách chân thực về những câu chuyện và con người ở trong quá khứ và hiện tại. Nó bao gồm các tài nguyên văn hóa, lịch sử và tự nhiên” (NTHP, 2015). NTHP đã tiên phong trong quá trình dành cho các chương trình du lịch di sản vào năm 1990 bằng cách xác định năm nguyên tắc hướng dẫn: Hợp tác; Tìm sự phù hợp giữa cộng đồng và du lịch; Làm cho các

khu di sản và các chương trình trở nên sống động; Tập trung vào tính chân thực và Chất lượng; Bảo tồn và bảo vệ các nguồn tài nguyên; và bốn bước để bắt đầu: Đánh giá tiềm năng; Lập kế hoạch và tổ chức; Chuẩn bị; Bảo vệ và Quản lý; Làm thị trường để thành công (Jascha M. Zeitlin; Steven W. Burr, 2011).

Từ những quan niệm khác nhau, luận án đi đến khái niệm: Du lịch Di sản văn hóa là một kiểu hình du lịch cho những trải nghiệm và kiến thức thực tế về tất cả những gì thuộc về quá khứ có liên quan đến sự sống của con người hay các hoạt động vật chất và tinh thần của con người. Nó là sự kết nối những ý niệm ở thực tại với những gì đã diễn ra trong quá khứ tạo nên những cảm xúc trân trọng, tự hào và biết ơn về các giá trị của quá khứ đã đi qua.

DLDSVH có những ảnh hưởng tích cực như: phát triển văn hóa khu vực, bảo vệ môi trường sống tự nhiên, tạo điểm nhấn của các khu vực du lịch, tăng cường truyền thống và văn hóa địa phương, DLDSVH có thể kéo dài thêm mùa du lịch hàng năm, và nó có thể là một hình thức của du lịch bền vững (Csapo, 2012). Du lịch văn hóa cung cấp sự phát triển, ngoài ra nó là một tác nhân thay đổi xã hội, tập hợp các xã hội trong sự thống nhất của các giác quan và các hoạt động trong quan hệ quốc tế đương đại. Du lịch văn hóa thiết lập một cuộc đối thoại giữa các nền văn hóa khác nhau và tương tự với nhau. Du lịch văn hóa là một phương tiện thầm lặng và chân thành đối với văn hóa của một đất nước và là phương tiện để biết thêm về các nền văn hóa khác (Hüseyin Cengiz; Semiha Sultan Eryılmaz; Yasasın Eryılmaz, 2006).

Du lịch văn hóa là quan trọng vì nhiều lý do; Nó có tác động kinh tế và xã hội tích cực, nó thiết lập và củng cố bản sắc, nó giúp xây dựng hình ảnh, giúp bảo tồn di sản văn hóa và lịch sử, với văn hóa là công cụ tạo điều kiện hòa hợp và hiểu biết cho mọi người, nó hỗ trợ văn hóa và giúp làm mới du lịch (UNESCO, 2003).

2.1.1.4. Kinh doanh du lịch và kinh doanh du lịch di sản văn hóa

Kinh doanh du lịch là kinh doanh dịch vụ du lịch bao gồm các ngành nghề sau đây: Kinh doanh lữ hành; Kinh doanh lưu trú du lịch; Kinh doanh vận chuyển khách du lịch; Kinh doanh phát triển khu du lịch, điểm du lịch; Kinh doanh các dịch vụ khác (Điều 38, Luật Du lịch Việt Nam năm 2005, 2017). Trong đó, kinh doanh đại lý lữ hành là việc tổ chức, cá nhân nhận bán chương trình du lịch của doanh

nghiệp kinh doanh dịch vụ lữ hành cho khách du lịch để hưởng hoa hồng. Kinh doanh cơ sở lưu trú bao gồm: khách sạn, làng du lịch, biệt thự du lịch, căn hộ du lịch, bãi cắm trại du lịch, nhà nghỉ du lịch, nhà ở có phòng cho khách du lịch thuê, các cơ sở lưu trú du lịch khác. Kinh doanh vận chuyển khách du lịch là việc cung cấp dịch vụ vận chuyển cho khách du lịch theo tuyến du lịch, theo chương trình du lịch và tại các khu du lịch, điểm du lịch, đô thị du lịch. Kinh doanh phát triển khu du lịch, điểm du lịch bao gồm đầu tư bảo tồn, nâng cấp tài nguyên du lịch đã có; đưa các tài nguyên du lịch tiềm năng vào khai thác; phát triển khu du lịch, điểm du lịch mới; kinh doanh xây dựng kết cấu hạ tầng du lịch, cơ sở vật chất – kỹ thuật du lịch. Kinh doanh dịch vụ du lịch trong khu du lịch, điểm du lịch, đô thị du lịch bao gồm kinh doanh lữ hành, lưu trú du lịch, vận chuyển khách du lịch, ăn uống, mua sắm, thể thao, giải trí, thông tin và các dịch vụ khác phục vụ khách du lịch.

Kinh doanh du lịch di sản văn hóa: Có nhiều quan điểm về KDDLDSVH của các nhà nghiên cứu, các nhà quản lý du lịch trong và ngoài nước theo nhiều góc độ và cách tiếp cận khác nhau. Hầu hết, các quan điểm vẫn chưa đi sâu vào khái niệm cụ thể cũng như việc thống nhất các quan điểm đó. Do bối cảnh thay đổi nhanh chóng của thời đại, sự phát triển của các loại hình du lịch khác nhau trên thực tế, việc nghiên cứu về các mô hình hoạt động kinh doanh được hình thành một cách phong phú và đa dạng với nhiều mức độ, nội dung và hình thức trở nên khó khăn và phức tạp hơn. Tuy nhiên, luận án quan niệm KDDLDSVH là kinh doanh các hoạt động dịch vụ du lịch gắn liền với các điểm di sản văn hóa. Luận án đưa ra khái niệm, Kinh doanh du lịch di sản văn hóa là việc các chủ thể kinh doanh hoặc các chủ thể có liên quan đến kinh doanh du lịch cung cấp tất cả các hoạt động dịch vụ như dịch vụ ẩm thực, dịch vụ vận chuyển, lưu trú, giải trí… và cung cấp hàng hóa vô hình (tri thức, kiến thức, thông tin về các di sản văn hóa) cho khách du lịch tại các điểm di sản văn hóa, vùng có di sản văn hóa hay các khu vực có mối quan hệ đến di sản văn hóa (sân bay, nhà ga, trạm xe, xưởng sản xuất đồ lưu niệm…) nhằm thỏa mãn các nhu cầu của khách du lịch và thu lợi cho các nhà cung cấp dịch vụ thông qua lợi nhuận kinh doanh và/ hoặc lợi ích cho cộng đồng.

KDDLDSVH bao gồm các hoạt động liên quan như:

+ Kinh doanh dịch vụ du lịch trong điểm di sản, khu vực hay vùng có di sản bao gồm kinh doanh lữ hành, lưu trú du lịch, vận chuyển khách du lịch, ăn uống, mua sắm, thể thao, giải trí, thông tin và các dịch vụ khác phục vụ khách du lịch tại điểm hay vùng có di sản.

+ Kinh doanh phát triển khu di sản, điểm di sản bao gồm đầu tư bảo tồn, nâng cấp tài nguyên di sản đã có; đưa các tài nguyên di sản tiềm năng vào khai thác; phát triển khu di sản mới; kinh doanh xây dựng kết cấu hạ tầng du lịch, cơ sở vật chất – kỹ thuật du lịch tại điểm di sản, khu di sản.

+ Kinh doanh lữ hành là việc các doanh nghiệp bán các chương trình du lịch tới các điểm di sản, vùng có di sản cho khách du lịch và đạt được các lợi ích về kinh tế và xã hội. Trong đó, kinh doanh đại lý lữ hành là việc tổ chức, cá nhân nhận bán chương trình du lịch tới các điểm di sản văn hóa của doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ lữ hành cho khách du lịch để hưởng hoa hồng.

+ Kinh doanh cơ sở lưu trú bao gồm việc cung cấp khách sạn, nhà nghỉ, căn hộ, biệt thự, nhà ở (homestay) hay các cơ sở lưu trú du lịch khác tại điểm di sản hoặc vùng có di sản cho khách du lịch thuê.

+ Kinh doanh vận chuyển khách du lịch là việc cung cấp dịch vụ vận chuyển cho khách du lịch trực tiếp hoặc gián tiếp tới các điểm di sản hoặc vùng có di sản.

KDDLDSVH có rất nhiều cách thức và tất cả các hoạt động đều đảm bảo mục đích tối ưu hóa lợi nhuận song song với việc bảo tồn các di sản và phát triển lợi ích xã hội. Có thể chia hoạt động kinh doanh DLDSVH theo các phương diện như sau:

+ Xét về mặt nội dung kinh doanh, KDDLDSVH bao gồm các hoạt động kinh doanh: Kinh doanh lữ hành; kinh doanh cơ sở lưu trú, kinh doanh vận chuyển, kinh doanh phát triển khu di sản, điểm di sản, kinh doanh dịch vụ du lịch trong điểm di sản, khu vực hay vùng có di sản bao gồm kinh doanh lữ hành, lưu trú du lịch, vận chuyển khách du lịch, ăn uống, mua sắm, thể thao, giải trí, thông tin và các dịch vụ khác phục vụ khách du lịch tại điểm hay vùng có di sản.

+ Xét về mặt hình thức kinh doanh, kinh doanh DLDSVH có thể hoạt động dưới các dạng sau: thứ nhất, kết hợp việc tham quan bảo tàng (trên bờ, dưới nước) với việc thu lợi nhuận từ việc bán vé hoặc doanh thu từ việc bán đồ lưu niệm hay các dịch vụ ẩm thực, giải trí trong khuôn viên bảo tàng. Đối với các bảo tàng dưới

nước, ngoài việc bán vé tham quan bảo tàng dưới nước, các nhà kinh doanh còn có thể thu lợi từ các dịch vụ cho thuê các dụng cụ hay đồ lặn biển chuyên dụng cũng như việc cung cấp các dịch vụ hỗ trợ lặn biển tham quan bảo tàng dưới nước. Thứ hai, là hình thức cung cấp dịch vụ tour các di sản, các nhà kinh doanh có thể thu lợi từ việc bán vé dịch vụ tour các di sản trong khu vực kết hợp việc cung cấp các dịch vụ ẩm thực, giải trí, vận chuyển, lưu trú đi kèm. Thứ ba, hình thức cung cấp tour di sản kết hợp với các hình thức kinh doanh du lịch khác như du lịch MICE, du lịch cộng đồng hay du lịch nông thôn…, các nhà cung cấp dịch vụ tour du lịch có thể tối ưu hóa hiệu suất hoạt động kinh doanh với việc cung cấp trọn gói các dịch vụ từ việc tham quan địa điểm di sản, các bảo tàng, các điểm giải trí, điểm tham quan… cho đến việc cung cấp các dịch vụ như lưu trú, ẩm thực, vận chuyển trong quá trình đi tour.

+ Xét về mặt quy mô kinh doanh, các nhà kinh doanh có thể khai thác tối đa lợi nhuận với quy mô KDDLDSVH ở trong nước hay quốc tế. Các nhà kinh doanh có thể chỉ chú trọng việc cung cấp các dịch vụ DLDSVH cho các du khách nội địa hoặc quốc tế, hoặc kết hợp cả khách nội địa và quốc tế. Tuy nhiên, do đặc điểm nhân khẩu học, mức độ nhu cầu khách nội địa và quốc tế là không giống nhau, nên việc song song cùng phục vụ hai đối tượng khách hàng sẽ khó khăn hơn chỉ một đối tượng trong việc tối ưu hóa hiệu suất hoạt động kinh doanh. Bởi vậy, việc phân chia hoạt động KDDLDSVH với quy mô trong nước hay quốc tế còn là vấn đề phụ thuộc vào năng lực, đặc điểm và nhu cầu của mỗi đơn vị kinh doanh.

2.1.1.5. Tiềm năng du lịch di sản văn hóa

“Tiềm năng du lịch” là một thuật ngữ được sử dụng rộng rãi và được chấp nhận trong lĩnh vực du lịch. Theo (Formica, 2000), thuật ngữ “tiềm năng” có thể được thay thế bởi “Sức hấp dẫn” điều này rõ ràng chỉ ra mối quan hệ giữa cung và cầu du lịch. Nhiều nhà nghiên cứu khác chấp nhận thuật ngữ “tiềm năng” mặc dù điều này có thể được coi là đồng nghĩa với “Sức hấp dẫn” (Bharat L. Gadakh; Ravindra G. Jaybhaye; Pravin M. Nalawade, 2015). Constantin cùng cộng sự thảo luận về tiềm năng du lịch tại một vùng bằng cách giảm thiểu sự mất cân bằng của cơ sở hạ tầng trong toàn bộ khu vực đó (Constantin, M., Constantin, D., Mihaela, G., 2009). “Tiềm năng du lịch” có thể được định nghĩa theo Explanatory Dictionary

of Tourism (Zelenka và Pásková, 2012: 433) là tổng hợp giá trị của tất cả các điều kiện tiên quyết của du lịch, thường được đánh giá dựa trên thang điểm. Định nghĩa này cho phép nhiều cách tiếp cận và quan điểm về đánh giá của nó. (Jiří Vystoupil, Martin Šauer, Ondřej Repík, 2017).

Đồng quan điểm với S. Formica (2000) và (Zelenka J. and Pásková M., 2012), Huyền (2020) cho rằng tiềm năng du lịch về cơ bản là các giá trị, các năng lực tiềm tàng có khả năng khai thác để phát triển, kế tục, đạt được thành quả trong du lịch. Với DLDSVH ở Việt Nam, tiềm năng DLDSVH là các giá trị, các năng lực tiềm tàng có khả năng khai thác để phát triển, kế tục, đạt được thành quả trong DLDSVH, bao gồm tiềm năng về cầu DLDSVH và tiềm năng về cung DLDSVH trong đó cung DLDSVH ở đây là các điểm di sản văn hóa và các dịch vụ được cung cấp để phục vụ cho khách DLDSVH. Các dịch vụ này bao gồm dịch vụ ẩm thực, giải trí, lưu trú, vận chuyển, truyền thông quảng bá và các dịch vụ khác.

Luận án quan niệm tiềm năng kinh doanh du lịch di sản văn hóa là khả năng đáp ứng, kế tục, khai thác và phát triển nguồn cung các sản phẩm du lịch gắn với các di sản văn hóa cho thị trường du lịch và có khả năng thu lợi cho các nhà cung cấp thông qua lợi nhuận kinh doanh và/ hoặc lợi ích cho xã hội trong tương lai.

2.1.2. Vai trò và lợi ích của kinh doanh du lịch di sản văn hóa

KDDLDSVH đóng vai trò quan trọng trong nhiều khía cạnh, cấp độ và lĩnh vực khác nhau. KDDLDSVH có vai trò đối với:

(i) Quốc gia/ Địa phương

- KDDLDSVH góp phần vào việc thúc đẩy các chiến lược xuất khẩu của vùng/ quốc gia.

- KDDLDSVH là cơ sở cho việc quảng bá, truyền thông các tài nguyên di sản văn hóa quốc gia cũng như hình ảnh hay thương hiệu của quốc gia ra thế giới bên ngoài.

- KDDLDSVH góp phần thúc đẩy các ngành kinh tế khác như ngành kinh doanh giao thông vận tải, quảng cáo, truyền thông, đồ lưu niệm … Qua đó, góp phần thúc đẩy tăng trưởng GDP vùng/ quốc gia và toàn cầu. KDDLDSVH góp phần vào việc thúc đẩy phát triển nền kinh tế vùng/ địa phương, qua đó, góp phần ổn định trật tự, an toàn, an ninh và an sinh xã hội.

- KDDLDSVH góp phần khai thác và phát triển các nguồn tài nguyên di sản văn hóa đồng thời góp phần vào việc bảo tồn và phát huy các giá trị nguồn tài nguyên các di sản văn hóa.

(ii) Doanh nghiệp/ ngành kinh doanh du lịch

- KDDLDSVH là ngành kinh doanh hẹp, góp phần thúc đẩy sự phát triển của ngành du lịch nói chung. Các sản phẩm và dịch vụ của ngành KDDLDSVH là một trong những chuỗi sản phẩm và dịch vụ cốt lõi của ngành kinh doanh du lịch.

- KDDLDSVH hoạt động như một sứ mệnh kết nối các loại hình kinh doanh du lịch khác nhau như kinh doanh du lịch sinh thái, kinh doanh du lịch cộng đồng, kinh doanh du lịch nghỉ dưỡng, kinh doanh du lịch nông thôn…. Ngành kinh doanh này cũng đã dẫn đến sự hồi sinh của các di sản văn hóa quốc gia cũng như trên thế giới.

- Hoạt động này đã cho phép các quốc gia phát triển các sản phẩm di sản văn hóa của họ. KDDLDSVH là động lực thúc đẩy các nhà cung cấp dịch vụ thỏa mãn sự tò mò về văn hóa và trí tuệ của khách du lịch trên khắp thế giới cũng như việc đáp ứng đủ các nhu cầu khác của khách du lịch.

(iii) Cộng đồng đi du lịch

- KDDLDSVH là một phương thức mang tính đại chúng để có thể hiểu biết sâu sắc hơn về con người và nhu cầu của con người. Đồng thời, KDDLDSVH cũng là động lực để thúc đẩy việc phát triển và mở rộng hơn các dịch vụ cung cấp kiến thức về DSVH cho cộng đồng khách du lịch. Qua đó, cộng đồng du lịch có thể làm quen, hiểu biết hơn, mở rộng hơn với các tập quán, phong tục hay việc dễ dàng để tham quan bảo tàng và chiêm ngưỡng các tác phẩm nghệ thuật của một vùng, miền hay quốc gia nào đó.

2.1.3. Hình thức kinh doanh du lịch di sản văn hóa

KDDLDSVH có rất nhiều cách thức và tất cả các hoạt động đều đảm bảo mục đích tối ưu hóa lợi nhuận song song với việc bảo tồn các di sản và phát triển lợi ích xã hội. Tuy nhiên có thể phân ra một số hình thức kinh doanh DLDSVH là:

- Kinh doanh tour tham quan bảo tàng (trên cạn, dưới nước): hình thức kinh doanh này được các tổ chức kinh doanh du lịch – lữ hành kết hợp với Ban quản lý các bảo tàng nhằm cung cấp cho khách du lịch các trải nghiệm tham quan các di vật

Xem tất cả 152 trang.

Ngày đăng: 15/04/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí