Để nâng cao hiệu quả quan hệ phối hợp trong KNHT, lực lượng CSGT và lực lượng CSĐT cần thực hiện mối quan hệ phối hợp trên các phương diện sau:
- Phối hợp trong tham gia thành phần KNHT các vụ TNGT cụ thể, dù là lực lượng CSGT chủ trì hay CSĐT chủ trì thì lực lượng CSĐT và CSGT cần phải phối hợp tham gia khám nghiệm với tinh thần, trách nhiệm cao nhất nhằm nâng cao hiệu quả điều tra các vụ án TNGT.
- Sau khi nhận được tin báo về vụ TNGT xảy ra, lực lượng CSĐT phải khẩn trương đến hiện trường để tiến hành KNHT hoặc phối hợp tham gia KNHT, khắc phục tình trạng đến hiện trường chậm chễ như trước đây.
- Để đảm bảo cho công tác KNHT có hiệu quả, dù là chủ trì hay phối hợp tham gia khám nghiệm, hai lực lượng cần phải phối hợp xác định phạm vi hiện trường, bảo vệ hiện trường, cấp cứu nạn nhân và thực hiện các công việc cấp bách ban đầu nhằm hạn chế thiệt hại do vụ TNGT gây ra.
- Trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ, KNHT lực lượng CSGT và CSĐT cần phối hợp để phát hiện, thu thập đầy đủ, đánh giá các dấu vết tại hiện trường, trên phương tiện giao thông và trên cơ thể nạn nhân của vụ tai nạn để làm rò bản chất của vụ việc xảy ra.
- Lực lượng CSGT và CSĐT cần phải phối hợp phát hiện và lấy lời khai người làm chứng tại hiện trường, phối hợp trong giải quyết hậu quả về người, tài sản do vụ tai nạn gây ra. Đồng thời hai lực lượng cần phối hợp trong lập các văn bản về KNHT, khám nghiệm phương tiện, xem xét thương tích trên cơ thể nạn nhân, lấy lời khai người làm chứng ... đảm bảo đúng pháp luật.
- Đối với những vụ do cơ quan CSĐT chủ trì KNHT, lực lượng CSGT phải trợ giúp cơ quan CSĐT, KTHS trong phát hiện, thu thập, nghiên cứu đánh giá dấu vết của vụ TNGT, đặc biệt là xác định tình trạng kỹ thuật của phương tiện giao thông, của đường, cầu, phà và công trình giao thông trước, trong và sau khi vụ TNGT xảy ra và ký vào biên bản KNHT với tư cách là cán bộ tham gia khám nghiệm.
- Lực lượng CSĐT cần phải trợ giúp CSGT về lập các văn bản liên quan đến hoạt động khám nghiệm tại hiện trường, xem xét thương tích nạn nhân, lấy lời khai người làm chứng và ký vào các văn bản đó với tư cách là ĐTV. Các biên bản này phải được lập theo đúng trình tự, thủ tụng tố tụng hình sự, phản ánh chính xác, khách quan, toàn diện quá trình tiến hành từng biện pháp, những kết quả thu thu
thập được, điều kiện hoàn cảnh tiến hành, các biện pháp và phương tiện áp dụng trong quá trình tiến hành và phải có chữ ký của những người theo luật định. Ngôn ngữ của biên bản phải đảm bảo tính đồng nghĩa, đơn giản, dễ hiểu và đúng với thuật ngữ chuyên ngành.
Trong quá trình thực hiện KNHT, dù là chủ trì hay tham gia phối hợp, mọi vướng mắc khi xác định, đánh giá dấu vết tài liệu tại hiện trường, các lực lượng phải đưa ra những ý kiến để trao đổi, thống nhất giải quyết, hạn chế những thiếu sót không đáng có nhằm nâng cao hiệu quả điều tra.
Có thể bạn quan tâm!
- Thực Tiễn Kiểm Sát Khám Nghiệm Hiện Trường Các Vụ Tai Nạn Giao Thông Trên Địa Bàn Thành Phố Biên Hòa, Tỉnh Đồng Nai
- Những Nguyên Nhân Dẫn Đến Những Hạn Chế Trong Hoạt Động Kiểm Sát Việc Khám Nghiệm Hiện Trường Các Vụ Tai Nạn Giao Thông .
- Giải Pháp Nâng Cao Hiệu Quả Kiểm Sát Khám Nghiệm Hiện Trường Các Vụ Án Tai Nạn Giao Thông
- Kiểm sát khám nghiệm hiện trường tai nạn giao thông từ thực tiễn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai - 10
- Kiểm sát khám nghiệm hiện trường tai nạn giao thông từ thực tiễn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai - 11
Xem toàn bộ 95 trang tài liệu này.
Đồng thời để thực hiện quan hệ phối hợp giữa CSGT và CSĐT có hiệu quả trong KNHT, các đơn vị chức năng của Bộ Công an cũng cần phải nghiên cứu, đầu tư, trang bị phương tiện KNHT, phương tiện đi lại cho phù hợp với từng địa phương và thống nhất trong toàn quốc.
2.2.2.2. Hoàn thiện phương pháp kiểm sát khám nghiệm hiện trường
Thứ nhất, nâng cao chất lượng tiếp nhận, xử lý và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm có liên quan đến KNHT: Tin báo, tố giác về tội phạm là nguồn phát hiện tội phạm. Việc tiếp nhận và xử lý tốt tin báo, tố giác về tội phạm có tác dụng trực tiếp giúp cho CQĐT phân loại để có phương án xử lý tội phạm ngay từ đầu. Chính vì vậy, BLTTHS hiện hành quy định đã quy định cụ thể trách nhiệm của các tổ chức và công dân trong việc phát hiện, tố giác hành vi phạm tội với cơ quan tiến hành tố tụng.
Kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố là hoạt động đầu tiên của quá trình giải quyết vụ án hình sự nói chung về giải quyết các vụ án vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ nhằm phát hiện hành vi phạm tội hay không phạm tội. Do đó, để nâng cao hiệu quả kiểm sát đối với công tác này, Luật tổ chức VKSND năm 2014 quy định việc THQCT, kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố cho thấy vai trò của VKS đối với công tác kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố là đặc biệt quan trọng. Điều đó thể hiện việc kiểm sát tin báo được thực hiện ngay từ giai đoạn ban đầu nhằm đảm bảo việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của CQĐT kịp thời, đầy đủ và đúng pháp luật.
Trước hết cần làm cho cán bộ, KSV nhận thức rò việc nắm chắc tin báo, tố
giác về tội phạm là nội dung đầu tiên có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong toàn bộ tiến trình thực hiện nhiệm vụ kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo tội phạm. Xác định đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của công tác THQCT và KSĐT nhằm chống oan sai và bỏ lọt tội phạm.
Lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện phân công KSV trực nghiệp vụ 24/24 giờ để tiếp nhận, quản lý đầy đủ tố giác, tin báo về tội phạm có liên quan đến KNHT do cơ quan, tổ chức, cá nhân chuyển đến. KSV phải ghi vào sổ thụ lý; ghi rò giờ, ngày, tháng, năm tiếp nhận; nội dung tố giác, tin báo về tội phạm có liên quan đến KNHT, khám nghiệm tử thi; tên, tuổi và địa chỉ của cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp; kịp thời báo cáo lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện để chuyển ngay các tố giác, tin báo về tội phạm kèm theo các tài liệu có liên quan cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền giải quyết. Nếu là thông tin do Cơ quan có thẩm quyền điều tra cung cấp, KSV được phân công trực phải báo cáo ngay lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện để kịp thời phân công KSV thực hành quyền công tố, kiểm sát việc KNHT.
KSV, Kiểm tra viên phải giữ bí mật thông tin của cá nhân đã cung cấp tố giác, tin báo có liên quan đến KNHT, khám nghiệm tử thi nếu có yêu cầu.
Như vậy, trách nhiệm của VKSND đối với việc xử lý thông tin về tội phạm và vi phạm pháp luật là rất lớn. Trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật trước đây cũng như Nghị quyết của Chính phủ về tăng cường công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới đều nêu rò là các cơ quan thuộc Chính phủ, các cơ quan nhà nước khác phải có trách nhiệm thông tin và phối hợp với VKS các cấp để tiếp nhận và xử lý tin báo về tội phạm, đảm bảo mọi hành vi phạm tội đều phải được điều tra, xử lý một cách kịp thời, nghiêm minh. VKSND phải chủ động nắm bắt để yêu cầu cơ quan Công an và các cơ quan khác cung cấp thông tin về tội phạm, trên cơ sở đó yêu cầu CQĐT khởi tố vụ án, khởi tố bị can, tiến hành thu thập các tài liệu chứng cứ của vụ án.
Để làm tốt việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, cơ quan Công an thông báo cho VKS những tin báo về tội phạm hàng ngày hoặc hàng ngày VKS cử KSV đến làm việc trực tiếp với cơ quan Công an để nắm các tin báo, tố giác về tội phạm. Hàng tuần VKS chủ trì giao ban liên ngành để nghe các cơ quan hữu quan thông báo tình hình TNGT và tiến hành việc phân loại xử lý.
Để công tác kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm
và kiến nghị khởi tố của CQĐT đạt hiệu quả cao, chúng ta cần phải vận dụng nhiều biện pháp kiểm sát, đặc biệt là tăng cường công tác kiểm sát trực tiếp. Đồng thời, trong quá trình kiểm sát tin báo mỗi cán bộ, KSV được phân công kiểm sát tin báo cần có sổ theo dòi các vi phạm trong quá trình giải quyết tin báo, để tổng hợp đề xuất kiến nghị để CQĐT khắc phục, thường xuyên rà soát có văn bản nhắc nhở những tố giác, tin báo sắp quá hạn, các tin báo đơn giản, không cần xác minh để CQĐT kịp thời khắc phục, để công tác giải quyết tố giác tin báo được giải quyết nhanh và đạt hiệu quả.
Thứ hai, KSV muốn làm tốt việc KSKNHT cần có một phương pháp kiểm sát khoa học, làm sao mọi hoạt động diễn ra KSV phải bao quát được, từ đó có sự chỉ đạo và chấn chỉnh kịp thời với những hoạt động không đúng của những người tiến hành tố tụng trong quá trình khám nghiệm. Muốn làm được việc này KSV cần phải thực hiện theo những bước sau đây:
Thứ nhất, trước khi tiến hành KNHT, KSV phải yêu cầu Cơ quan điều tra làm tốt công tác bảo vệ hiện trường, phải chủ động nắm tình hình, yêu cầu ĐTV, cán bộ điều tra thông báo nội dung, diễn biến ban đầu và thông báo những thông tin liên quan đến việc cần khám nghiệm, kết quả điều tra xác minh ban đầu về những tình tiết liên quan đến hiện trường bảo đảm đúng quy định tại Điều 201 BLTTHS.
Thứ hai, KSV cần kiểm sát chặt chẽ hoạt động của những thành viên tham gia trong HĐKN, kịp thời phát hiện những thiếu sót để yêu cầu khắc phục ngay. KSV phải phối hợp với ĐTV, cán bộ điều tra, người có chuyên môn để thống nhất nội dung, kế hoạch, trình tự KNHT, bảo đảm khách quan, toàn diện và đúng pháp luật. Quá trình Hội đồng tiến hành thu thập dấu vết vật chứng tại hiện trường cũng như tiến hành những hoạt động điều tra khác tại hiện trường phải đảm bảo tính hợp pháp và tính có căn cứ khi tiến hành những hoạt động đó. Trong quá trình KNHT, KSV phải kiểm sát chặt chẽ các hoạt động khám nghiệm. Yêu cầu diều tra viên, cán bộ điều tra, người có chuyên môn thực hiện đúng trình tự, thủ tục khám nghiệm; vẽ sơ đồ, chụp ảnh, đo đạc và mô tả thực trạng hiện trường theo quy định của pháp luật. Yêu cầu biên bản KNHT phải được lập, sơ đồ hiện trường phải được vẽ ngay tại nơi khám nghiệm. Khi tiến hành, những vùng nào cần phải chụp ảnh, vẽ sơ đồ, mô tả chi tiết tỉ mỉ, chính xác trong biên bản, những mẫu vật nào phải thu giữ, niêm phong... thì KSV cần yêu cầu HĐKN hiện trường tiến hành ngay.
KSV phải ghi chép đầy đủ, chính xác, rò ràng, cụ thể các tình tiết, đặc điểm, vị trí của dấu vết, vật chứng, đồ vật, tài liệu quan trọng tại hiện trường để có cơ sở xem xét đối chiếu, kiểm tra với biên bản và sơ đồ KNHT. Trường hợp cần thiết, KSV có thể chụp ảnh, ghi hình, vẽ sơ đồ, mô tả hiện trường, xem xét tại chỗ dấu vết, đồ vật, tài liệu có liên quan đến tội phạm, lấy lời khai và ghi âm lời khai của người bị hại, người làm chứng và những người biết việc. Các tài liệu này được lưu hồ sơ kiểm sát.
Thứ ba, trước khi ký nhận KSV cần kiểm tra các vấn đề sau đây, hình thức biên bản có được lập đúng theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự không; nội dung biên bản có phản ánh đầy đủ, khách quan, toàn diện kết quả KNHT không, như: quá trình tiến hành, những dấu vết, vật chứng thu thập được, thành phần gồm những ai, thủ tục tiến hành như thế nào; biên bản phải được lập tại chỗ và phải được các thành viên trong HĐKN thông qua và ký xác nhận. Những chỗ nào nội dung trong biên bản phản ánh còn thiếu, chưa đúng, thì KSV phải yêu cầu bổ sung ngay.
Thứ tư, sau quá trình tiến hành khám nghiệm cần họp HĐKN, KSV phối hợp với ĐTV, cán bộ điều tra, người có chuyên môn phân tích, đánh giá các dấu vết, vật chứng, đồ vật, tài liệu, dữ liệu điện tử đã thu giữ được tại hiện trường để đặt ra các giả thuyết điều tra, định hướng cho việc khám nghiệm, thu giữ dấu vết được đầy đủ, chính xác, phục vụ công tác truy tìm vật chứng, truy bắt người thực hiện hành vi phạm tội.
Nếu thấy việc KNHT chưa đầy đủ, vi phạm quy định tại Điều 201 BLTTHS thì KSV yêu cầu ĐTV, cán bộ điều tra, người có chuyên môn bổ sung, khắc phục; KSV phối hợp cùng ĐTV, cán bộ điều tra phân tích, đánh giá đúng kết quả KNHT; xem xét quyết định kết thúc khám nghiệm hoặc tiếp tục bảo vệ hiện trường để có thể khám nghiệm bổ sung, khám nghiệm lại; xác định rò những dấu vết, vật chứng, đồ vật, tài liệu, dữ liệu điện tử cần được trưng cầu giám định, nội dung cần trưng cầu để phục vụ cho công tác điều tra, giải quyết vụ án.
Sau khi tiến hành hoạt động kiểm sát điều tra tại hiện trường, KSV phải báo cáo kết quả hoạt động với lãnh đạo VKS cũng như thảo văn bản gửi cấp trên để có hướng dẫn và chỉ đạo nghiệp vụ kịp thời.
2.2.3. Giải pháp đào tạo, bồi dưỡng, đào tạo Kiểm sát viên đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ kiểm sát khám nghiệm hiện trường các vụ án tai nạn giao thông
2.2.3.1. Nâng cao năng lực chuyên môn nghiệp vụ, tinh thần trách nhiệm cho đội ngũ Kiểm sát viên trong hoạt động khám nghiệm hiện trường và kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường
Năng lực chuyên môn nghiệp vụ trong đó bao gồm cả nghiệp vụ kiểm sát và các kiến thức về khoa học KTHS, pháp y và tinh thần trách nhiệm của đội ngũ KSV làm công tác KSKNHT luôn luôn là yếu tố quyết định đến chất lượng, hiệu quả của công tác này. Vì vậy, không thể nâng cao chất lượng công tác KSKNHT nếu không chú ý đến việc nâng cao năng lực chuyên môn nghiệp vụ và tinh thần trách nhiệm của đội ngũ ĐTV, KSV làm công tác này. Năng lực chuyên môn nghiệp vụ và tinh thần trách nhiệm của ĐTV, KSV trong công tác khám nghiệm và KSKNHT cần phải được thể hiện trong thực tiễn công tác hàng ngày với tinh thần cụ thể sau:
- Thực hiện đúng các quy định của Bộ luật TTHS về KNHT và KSKNHT như: Việc KNHT có thể tiến hành trước khi khởi tố vụ án hình sự; việc KNHT bắt buộc phải có người chứng kiến; khi KNHT Cơ quan điều tra phải thông báo cho VKS cùng cấp biết; biên bản KNHT phải lập đúng qui định của pháp luật .v.v.
- Khi tiến hành KSKNHT thì KSV cần thực hiện đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn được quy định trong Luật tổ chức VKSND. Theo quy định của Bộ luật TTHS và Luật tổ chức VKSND thì mối quan hệ giữa KSV với ĐTV và những người tham gia tố tụng (Giám định viên, Kỹ thuật viên,...) là mối quan hệ pháp lý, trong đó KSV phải là người giám sát chặt chẽ các hành vi của ĐTV và những người tham gia tố tụng trong hoạt động KNHT, khám nghiệm tử thi đảm bảo cho việc phát hiện thu thập dấu vết, vật chứng và các hoạt động điều tra khác tại hiện trường được thực hiện đúng pháp luật, khách quan, toàn diện và chính xác, đồng thời KSV cần có sự phối hợp chặt chẽ với Cơ quan điều tra, với với ĐTV trong KNHT, chủ động đề ra yêu cầu điều tra nhằm làm rò những tình tiết của vụ án.
Kết quả của công tác KNHT phụ thuộc rất nhiều vào năng lực, khả năng cảm nhận, tư duy của KSV, ĐTV và Kỹ thuật viên, kết quả của công tác KNHT, khám nghiệm tử thi có vai trò quan trọng trong quá trình điều tra các vụ án giết người. Tuy nhiên, công việc này chỉ có thể tiến hành một lần và không thể làm lại do tính chất dễ biến đổi của hiện trường, do vậy kết quả thu được tại hiện trường phụ thuộc rất nhiều vào những người trực tiếp tiến hành khám nghiệm từng vụ án cụ thể. Điều này khiến cho việc nâng cao năng lực của KSV, ĐTV và Kỹ thuật viên trở nên cấp
thiết, thêm vào đó, thực tế hiện nay lực lượng Cán bộ KTHS vừa thiếu lại vừa yếu. Tình trạng này một phần do số lượng Cán bộ KTHS được đào tạo chuyên ngành là rất ít, điều này kéo theo việc điều chuyển những Cán bộ không đúng chuyên môn về làm công tác KTHS để bù đắp sự thiếu hụt về số lượng, từ đó càng làm cho chất lượng đội ngũ Cán bộ KTHS không đáp ứng yêu cầu thực tế. Để khắc phục tình trạng này cần phối hợp cả việc đào tạo Cán bộ mới với nâng cao trình độ của đội ngũ Cán bộ hiện đang công tác. Bên cạnh đó cần khắc phục một số yêu cầu sau:
+ Những cán bộ bị điều chuyển làm những công việc không đúng chuyên môn cần được chuyển về đúng vị trí công tác của họ;
+ Có kế hoạch thường xuyên mở các lớp tập huấn, bồi dưỡng ngắn hạn về công tác KNHT cho đội ngũ ĐTV, KSV và cả Kỹ thuật viên hiện đang công tác, bên cạnh đó các lực lượng này cũng cần tự bổ sung kiến thức cho mình về KNHT, khám nghiệm tử thi. Điều này là thực sự cần thiết do sự phát triển ngày càng nhanh của kỹ thuật, công nghệ và thủ đoạn phạm tội của bọn tội phạm cũng ngày càng tinh vi hơn. Đồng thời lực lượng Kỹ thuật viên hình sự hiện nay ở các cấp quận, huyện, thị xã còn yếu, nên việc nâng cao nghiệp vụ là cần thiết.
Các ĐTV, KSV được phân công luôn tận tụy đối với công tác KNHT, nhạy bén, có tính khoa học và sáng tạo, biết định hướng trong công tác KNHT nhằm hoạch định kế hoạch khám nghiệm phù hợp với hiện trường từng loại vụ việc khác nhau, với quy luật hình thành và tồn tại dấu vết. Quá trình khám nghiệm đã được xem xét tỉ mỉ các dấu vết để trên hiện trường, tử thi và thu thập các mẫu vật liên quan đến vụ việc nhằm đánh giá chứng cứ, không xảy ra tình trạng khám nghiệm sơ sài ảnh hưởng đến việc điều tra, truy tố và xét xử hoặc phải khai quật tử thi hoặc dựng lại hiện trường.
- KSV, ĐTV cần nêu cao tinh thần trách nhiệm đối với công tác khám nghiệm, đảm bảo tính chính xác, toàn diện và đầy đủ có mặt tại hiện trường kịp thời để thực hiện hoạt động kiểm sát việc KNHT. Trong qúa trình khám nghiệm ĐTV và KSV thực hiện đúng quy định của tố tụng về chức năng nhiệm vụ theo quy định tại các Điều 36, 37, 41, 32 BLTTHS năm 2015.
- Cán bộ KSV, ĐTV thường xuyên học tập để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ nhất là kiến thức về khoa học dấu vết, kiến thức về giám định pháp y, các thành tựu khoa học tiên tiến cho lực lượng KSV và ĐTV.
- Làm tốt công tác tuyên truyền các kiến thức pháp luật cơ bản để người dân hiểu thêm tầm quan trọng của công tác KNHT, từ đó kịp thời cung cấp thông tin về tội phạm cho các cơ quan chức năng xử lý đúng quy định.
- Cần đầu tư thêm trang thiết bị kỹ thuật, công cụ hỗ trợ trong công tác KNHT để phục vụ cho việc khám nghiệm được kết quả tốt hơn.
2.2.3.2. Thường xuyên tổng kết, rút kinh nghiệm, hướng dẫn nghiệp vụ kiểm sát khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi
VKSND các cấp nói chung và thành phố Biên Hòa nói riêng cần quan tâm thường xuyên đến việc đúc rút kinh nghiệm về công tác KSKNHT thông qua kết quả khám nghiệm những vụ án nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, phức tạp để nâng cao trình độ cho đội ngũ KSV. Hàng năm phải tổ chức các lớp tập huấn chuyên sâu về công tác KSKNHT, khám nghiệm tử thi. Trên cơ sở tổng kết, rút kinh nghiệm những ưu điểm và hạn chế, khó khăn trong thực tiễn công tác này ở từng VKSND địa phương, ở từng vụ án nhằm rút ra những bài học kinh nghiệm để bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ KSV về phương pháp KNHT, về KTHS, về pháp y,
...VKSND tối cao cần tổ chức thường xuyên các cuộc hội thảo theo đề tài về công tác KSKNHT để tạo điều kiện cho các VKSND địa phương học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau, tìm biện pháp tháo gỡ những khó khăn vướng mắc ở từng địa phương, nhất là đối với những địa phương vùng sâu, vùng xa mà việc KSKNHT, khám nghiệm tử thi thường gặp nhiều khó khăn.
Về công tác đào tạo, VKSND tối cao và hai Trường Đại học kiểm sát Hà Nội và Trường đào tạo, bồi dưỡng nghiêp vụ kiểm sát thành phố Hồ Chí Minh cần chú trọng hơn nữa, đầu tư thỏa đáng cho khoa Tội phạm học và Điều tra tội phạm của trường, cả về con người là đội ngũ cán bộ, giảng viên và cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật phục vụ công tác đào tạo nói chung và hoạt động KSKNHT, khám nghiệm tử thi, khai quật tử thi nói riêng. Cùng với đội ngũ giảng viên kiêm chức là các ĐTV thì VKSND tối cao cũng cần sớm tìm ra giải pháp bổ nhiệm chức danh ĐTV cho các giảng viên thuộc Khoa khi họ có đủ điều kiện. Việc làm này sẽ giúp cho học viên khi tham gia học tập, bồi dưỡng nhận thấy đội ngũ giảng viên không chỉ chắc về lý luận, có chức danh tư pháp, đồng thời cũng rất tinh thông nghiệp vụ điều tra. Bởi vì muốn kiểm sát hoạt động khám nghiệm hiện trường được tốt thì các KSV cũng phải nắm được những kiến thức và am hiểu về các hoạt động điều tra tại