sơ đồ hiện trường theo quy định của pháp luật thường không được tiến hành ngay ở hiện trường vụ tai nạn mà tại hiện trường cán bộ kỹ thuật chỉ vẽ phác họa, còn việc vẽ cụ thể chi tiết vào bản vẽ sơ đồ hiện trường được tiến hành sau và yêu cầu các thành phần tham gia khám nghiệm ký nhận vào. KSV cũng dễ dãi ký vào biên bản cho xong trách nhiệm, dẫn đến sau này sơ đồ hiện trường nhiều trường hợp không phản ánh đúng nội dung vụ tai nạn xảy ra. Điều này chứng tỏ các thành phần tham gia khám nghiệm đã không tuân thủ theo đúng các quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục tiến hành.
Bốn là, về khám nghiệm phương tiện liên quan đến vu án: Khi tiến hành khám nghiệm phương tiện liên quan đến vụ tai nạn, tiến hành một số công việc cụ thể như:
+ Kiểm tra, đối chiếu giấy tờ, tạm giữ giấy tờ có liên quan đến phương tiện (nếu cần thiết).
+ Phát hiện, thu thập dấu vết trên phương tiện, ghi nhận vào biên bản và chụp ảnh.
+ Kiểm tra đánh giá tình trạng của phương tiện nhằm xác định nguyên nhân điều kiện vụ tai nạn có liên quan đến phương tiện.
Tuy nhiên công tác khám nghiệm phương tiện có liên quan đến vụ tai nạn còn rất nhiều hạn chế như: Việc xác định tình trạng kỹ thuật của phương tiện có liên quan đến vụ án có một số trường hợp chưa chính xác. Nguyên nhân chủ yếu là do trình độ chuyên môn kỹ thuật về phương tiện giao thông của ĐTV và cán bộ điều tra không được đào tạo cơ bản. Nếu không có sự tham gia hỗ trợ về chuyên môn của Sở Giao thông vận tải, lực lượng KTHS sự thì việc kiểm tra đánh giá tình trạng kỹ thuật ít được tiến hành hoặc chủ yếu là khám nghiệm bên ngoài, những dấu vết vật chứng mà mắt thường có thể nhìn thấy được. Trong những trường hợp đó, KSV không nhạy bén, không đưa ra yêu cầu đối với ĐTV về việc mời những người có chuyên môn tham gia khám nghiệm phương tiện. Chính điều này dẫn đến vụ việc phải kéo dài do phải giám định nhiều lần mới xác định được nguyên nhân của sự cố.
Vụ án cụ thể: Nội dung vụ án được nêu chi tiết tại Phụ lục 1 – Vụ án thứ 7 của Luận văn:
Khi tiến hành KNHT CSGT khám nghiệm phương tiện không tìm ra nguyên nhân của sự cố mất phanh. Phải đợi trưng cầu giám định đến Sở giao thông vận tải.
Tại bản kết luận giám định tư pháp số 60-2017/KLGĐ-PT của Sở giao thông vận tải UBND tỉnh Đồng Nai kết luận: Hệ thống phanh ôtô tải thùng mui bạt biển số 60C-
001.40 không đảm bảo an toàn kỹ thuật gây nên sự cố mất phanh gây tai nạn. Quyết định trưng cầu của Cơ quan điều tra không nêu rò giám định nguyên nhân của việc mất phanh nên sau đó lại phải tiếp tục trưng cầu lần 2. Tại công văn số 02/18/TLGĐ-ĐTTH ngày 09/02/2018 đã trả lời: Nguyên nhân dẫn đến việc hệ thống phanh xe ôtô tải thùng mui bạt biển số 60C-001.04 không đảm bảo an toàn kỹ thuật gây nên sự cố mất phanh gây tai nạn” như sau: Do hệ thống phanh xe ôtô biển số 60C-001.04 hoạt động trong tình trạng thiếu hụt dầu thủy lục (dầu phanh) dẫn đến mất tác dụng phanh.
Có thể bạn quan tâm!
- Kiểm Sát Đối Tượng Và Phương Pháp Khám Nghiệm Hiện Trường Của Các Vụ Tai Nạn Giao Thông
- Thực Tiễn Kiểm Sát Khám Nghiệm Hiện Trường Các Vụ Tai Nạn Giao Thông Trên Địa Bàn Thành Phố Biên Hòa, Tỉnh Đồng Nai
- Những Nguyên Nhân Dẫn Đến Những Hạn Chế Trong Hoạt Động Kiểm Sát Việc Khám Nghiệm Hiện Trường Các Vụ Tai Nạn Giao Thông .
- Hoàn Thiện Phương Pháp Kiểm Sát Khám Nghiệm Hiện Trường
- Kiểm sát khám nghiệm hiện trường tai nạn giao thông từ thực tiễn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai - 10
- Kiểm sát khám nghiệm hiện trường tai nạn giao thông từ thực tiễn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai - 11
Xem toàn bộ 95 trang tài liệu này.
Năm là, nhận thức về vị trí, chức năng, nhiệm vụ của mình trong công tác của các KSV còn chưa đúng, nên không phát huy hết trách nhiệm. Nhiều KSV được phân công đến hiện trường chỉ cho đủ, mang tính hình thức, không xác định được vị trí, vai trò và trách nhiệm của mình, nên không làm theo đúng quy định của pháp luật, có nhiều vụ việc KSV đứng một nơi chờ khám nghiệm xong thì ký vào biên bản. Tinh thần trách nhiệm của nhiều KSV khi tham gia KNHT, khám nghiệm tử thi chưa được cao, còn nhiều cán bộ, KSV ngại khó, ngại khổ trong công tác, sợ bẩn, làm qua loa đại khái hoặc cả nể, né tránh, ngại va chạm mất lòng... đây là những nguyên nhân quan trọng đã dẫn đến những sai sót nghiêm trọng trong hoạt động KNHT và cũng chính là tự hạ thấp vai trò của KSV, giảm sút uy tín của Ngành Kiểm sát. Việc khắc phục những nguyên nhân của những hạn chế trên là một đòi hỏi bức thiết của thực tế nhằm tạo điều kiện để nâng cao chất lượng hoạt động của công tác này trong thời gian tới.
Vụ án cụ thể: Nội dung vụ án được nêu chi tiết tại Phụ lục 1 – Vụ án thứ 8 của Luận văn:
Sau khi gây tai nạn, xe ô tô của Nguyễn Thanh Tùng đã di chuyển cách hiện trường tại nạn 200m. Tại hiện trường thu thập được vết phanh đôi nằm trên làn đường số 2 (tính từ lề phải) làm căn cứ xác định Tùng lưu thông trên làn đường số
2. Tuy nhiên, quá trình khám nghiệm do chủ quan mà ĐTV cũng như KSV không yêu cầu thu thập mẫu vết phanh đôi để lại trên làn đường số 2 để giám định với mẫu lốp xe ô tô do Tùng điều khiển làm căn cứ xác định đó là vết phanh xe của Tùng để lại. Kết quả, khi lấy lời khai của Nguyễn Thanh Tùng thì Tùng khai tại thời điểm
xảy ra tai nạn, Tùng đang chạy trên làn đường số 3 và vụ tai nạn xảy ra bên trái xe của Tùng tức nằm ở giữa làn thứ 3 và thứ 4 (tính từ lề phải). Lời khai này mâu thuẫn với toàn bộ chứng cứ thể hiện tại hồ sơ (sơ đồ và biên bản khám nghiệm thể hiện tai nạn xảy ra trên làn số 2 tức ở bên phải xe ô tô của Tùng). Như vậy, do không thu thập vết phanh đôi để lại nên không có cơ sở xác định xe của Tùng lưu thông trên làn nào, dẫn đến toàn bộ các dấu vết thu thập được tại làn số 2 không có giá trị chứng minh lỗi của Tùng.
2.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả kiểm sát khám nghiệm hiện trường các vụ án tai nạn giao thông
2.2.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật/hướng dẫn áp dụng pháp luật về kiểm sát khám nghiệm hiện trường các vụ án tai nạn giao thông
2.2.1.1. Hoàn thiện quy định của Bộ luật tố tụng hình sự
BLTTHS năm 2015, được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thông qua ngày 27 tháng 11 năm 2015. Bộ luật này gồm có 510 điều, chia thành 36 chương, 09 phần. Trong đó, các quy định có liên quan trực tiếp đến hoạt động KNHT.
Nội dung của các điều luật này có nhiều điểm mới so với những quy định về hoạt động KNHT trong BLTTHS năm 2003, cụ thể như sau:
Một là, mở rộng và quy định cụ thể các chủ thể được phép tổ chức và tiến hành hoạt động KNHT. Cụ thể, ĐTV được phân công điều tra vụ án hình sự hoặc cấp trưởng, cấp phó, cán bộ điều tra của các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có quyền trực tiếp tổ chức và chỉ đạo hoạt động KNHT.
BLTTHS năm 2003 chỉ ghi nhận thẩm quyền tiến hành hoạt động KNHT các vụ việc mang tính hình sự thuộc về ĐTV được phân công điều tra vụ án hình sự tại điểm d, khoản 01 Điều 35, ngoài ra không quy định cơ quan nào khác được tiến hành hoạt động này. Trong khi đó, Luật Tổ chức điều tra hình sự năm 2015 tại các Điều 32, 33, 34, 35, 36, 37, 38, 39 lại quy định các cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra ban đầu, trong quá trình điều tra được phép tiến hành hoạt động KNHT. Điều này tạo nên sự mâu thuẫn về nội dung quy định giữa hai văn bản pháp lý, đồng thời cũng gây ra những khó khăn trong việc áp dụng hai văn bản pháp lý này vào thực tế hoạt động KNHT phục vụ quá trình.
Chính vì thế, nhằm đảm bảo tính thống nhất trong quy định về chủ thể chủ trì
tiến hành hoạt động KNHT; đồng thời, tạo cơ sở pháp lý và điều kiện thuận lợi để các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra thực hiện tốt nhiệm vụ, quyền hạn trong quá trình điều tra, BLTTHS năm 2015 đã mở rộng, quy định cụ thể hơn về thẩm quyền tiến hành hoạt động KNHT tại 03 điều luật gồm Điều 37, 39, 40. Ngoài ra, tại khoản 1 Điều 42 cũng khẳng định quyền kiểm sát hoạt động KNHT thuộc về KSV được phân công thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự; việc quy định nội dung này đảm bảo cho hoạt động KNHT được thực hiện theo đúng trình tự quy định của Bộ luật.
Theo đó, những người có thẩm quyền trực tiếp tổ chức và chỉ đạo, tiến hành hoạt động KNHT bao gồm: ĐTV được phân công tiến hành hoạt động khởi tố, điều tra vụ án hình sự; cấp trưởng, cấp phó, cán bộ điều tra của các cơ quan của Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển, Kiểm ngư được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; cấp trưởng, cấp phó, cán bộ điều tra của các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.
Tuy nhiên, việc mở rộng chủ thể người có thẩm quyền trực tiếp tổ chức và chỉ đạo, tiến hành hoạt động KNHT như vậy lại xảy ra mâu thuẫn với quy định tại Điều 201 Bộ luật TTHS: “Trước khi tiến hành KNHT, ĐTV phải thông báo cho VKS cùng cấp biết về thời gian, địa điểm tiến hành khám nghiệm để cử Kiểm sát viên kiểm sát khám nghiệm hiện trường. KSV phải có mặt để kiểm sát việc KNHT
Theo đó, HĐKN do ĐTV chủ trì mời và KSV cũng dc ĐTV thông báo tham gia kiểm sát khám nghiệm. Nếu cấp trưởng, cấp phó, cán bộ điều tra của các cơ quan của Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển, Kiểm ngư được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; cấp trưởng, cấp phó, cán bộ điều tra của các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trực tiếp tổ chức và chỉ đạo, tiến hành hoạt động KNHT thì có phải thông báo cho VKS để cử KSV kiểm sát việc khám nghiệm không, nếu không có VKS tham gia thì kết quả khám nghiệm trên có đảm bảo thủ tục luật định hay không? Bởi lẽ, theo quy định về việc sự có sự tham gia của VKS để kiểm sát việc KNHT: "KSV phải có mặt để kiểm sát việc KNHT", do vậy nếu việc tiến hành khám nghiệm mà không có sự giám sát của Cơ quan VKS thì có phải thuộc trường hợp vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng không, toàn bộ
chứng cứ thu thập được có đảm bảo đúng trình tự, thủ tục luật định không.
Bởi lẽ theo quy định tại Quy chế công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, điều tra và truy tố (Ban hành kèm theo Quyết định số 111/QĐ-VKSTC ngày 17/4/2020 của Viện trưởng VKSND tối cao) cụ thể tại Điều 27. Trách nhiệm của VKS khi thực hành quyền công tố, kiểm sát việc KNHT: “Khi nhận được thông báo của Cơ quan có thẩm quyền điều tra, lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện phải cử KSV thực hành quyền công tố, kiểm sát việc KNHT, khám nghiệm tử thi đối với tất cả các vụ việc mà Cơ quan có thẩm quyền điều tra tiến hành khám nghiệm theo quy định của pháp luật”.
Đề nghị sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 201 BLTTHS để ràng buộc trách nhiệm của VKS đối với công tác kiểm sát điều tra tại hiện trường chặt chẽ hơn, như sau: “KNHT có thể tiến hành trước khi khởi tố vụ án hình sự. Trong mọi trường hợp, trước khi tiến hành khám nghiệm, ĐTV cũng như những Cán bộ khám nghiệm thuộc các Cơ quan có thẩm quyền điều tra tiến hành khám nghiệm phải thông báo cho VKS cùng cấp biết và KSV phải có mặt để kiểm sát việc KNHT, thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được quy định tại Điều 41 và Điều 42 Bộ luật này”.
Hiện nay, không có một điều luật nào quy định tập trung về thẩm quyền KNHT mà quy định này thể hiện không tập trung nằm rải rác ở: BLTTHS tại Điều 37, 39, 40; Luật tổ chức Cơ quan điều tra hình sự 2015; Quy trình điều tra, giải quyết TNGT đường bộ. Như vậy, cần quy định cụ thể trong một Điều luật của BLTTHS, Cụ thể kiến nghị bổ sung điều luật cụ thể như sau:
Điều luật mới. Thẩm quyền KNHT
“Thẩm quyền tiến hành công tác KNHT thuộc về Cơ quan CSĐT, VKS và các Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định tại Điều 9 Luật tổ chức Cơ quan điều tra hình sự được phép tổ chức và KNHT theo sự phân cấp về thụ lý các loại án hình sự”.
2.2.1.2. Hoàn thiện quy chế phối hợp, phương pháp lãnh đạo điều hành của Viện kiểm sát các địa phương và Cơ quan điều tra cũng như các cơ quan khác được giao tiến hành một số hoạt động điều tra.
Nhận thấy quan hệ phối hợp giữa giữa VKS với Cơ quan CSĐT và các cơ quan khác được giao tiến hành một số hoạt động điều tra là mối quan hệ phát sinh trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi cơ quan theo luật định, để hỗ
trợ lẫn nhau cùng giải quyết vụ việc được chính xác, khách quan và toàn diện.
Xây dựng Quy chế phối hợp giữa VKS với Cơ quan CSĐT và các cơ quan khác được giao tiến hành một số hoạt động điều tra nhằm quy định trách nhiệm và quyền hạn cụ thể của các cơ quan trong việc phối hợp với nhau KNHT, khám nghiệm tử thi để đảm bảo thực hiện đúng quy định của pháp luật, nâng cao chất lượng công tác khám nghiệm, thông qua phối hợp để kiến nghị khắc phục sai sót vi phạm và xây dựng kế hoạch phòng ngừa nhằm làm giảm thiểu TNGT.
Trong cơ chế phối hợp cần xác định cụ thể, rò ràng những vấn đề sau: Nội dung, hình thức phối hợp; chủ thể trong quan hệ phối hợp; nhiệm vụ của các chủ thể quan hệ phối hợp; trách nhiệm pháp lý của các bên khi không thực hện đúng hoặc thực hiện đầy đủ yêu cầu và nhiệm vụ trong quan hệ phối hợp; vai trò lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện quan hệ phối hợp… Chỉ khi có cơ chế phối hợp cụ thể như vậy mới tạo ra được cơ sở pháp lý và sự đồng bộ, thống nhất tập trung huy động kịp thời lực lượng và phương tiện phục vụ cho hoạt động KNHT đạt được hiệu quả cao.
Để khắc phục những tồn tại của sự phối hợp trong thời gian qua, nhận thấy cần xây dựng được quy chế làm việc cũng như quy chế về sự phối hợp hoạt động giữa VKSND các địa phương và Cơ quan điều tra cũng như các Cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra dựa trên Thông tư liên tịch quy định về phối hợp giữa cơ quan điều tra và VKS trong việc thực hiện một số quy định của BLTTHS số: 04/2018/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP ngày 19 tháng 10 năm 2018 của Viện KSND Tối cao, Bộ công an, Bộ quốc phòng. Khi xây dựng Quy chế phối hợp cần chú ý quy định rò trách nhiệm của từng lực lượng trên từng địa bàn cụ thể, từng công việc cụ thể để chấm dứt tình trạng phối hợp thiếu chặt chẽ, né tránh, đùn đẩy trách nhiệm cho nhau, thiếu hợp tác, từ chối quan hệ phối hợp không có lý do chính đáng.
Quy chế phối hợp cần xác định rò một số nội dung sau:
+ Quy định về nội dung phối hợp và lực lượng phối hợp.
+ Quy định về phương pháp phối hợp.
+ Quy định về thời gian thực hiện yêu cầu phối hợp.
+ Quy định về trách nhiệm của cơ quan được yêu cầu phối hợp trong việc đảm bảo phương tiện cho hoạt động phối hợp.
+ Quy định về lãnh đạo chỉ huy đối với sự phối hợp.
Quy chế này thay thế các quy định từ trước đến nay, nhằm thống nhất quan điểm chỉ đạo và thực hiện mối quan hệ phối hợp trong công tác điều tra án TNGT nói chung và hoạt động KNHT TNGT nói riêng. Đây là vấn đề cần thiết để giải quyết những vướng mắc trong vận dụng thực hiện quy định về quan hệ phối hợp của các Cơ quan nhằm nâng cao hơn nữa tính hiệu quả trong công tác điều tra xử lý án TNGT hiện nay.
2.2.2. Giải pháp phối hợp, triển khai hoạt động kiểm sát khám nghiệm hiện trường đối với các vụ án tai nạn giao thông
2.2.2.1. Tăng cường, nâng cao hiệu quả mối quan hệ phối hợp giữa Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân và các Cơ quan chuyên môn khác trong công tác khám nghiệm hiện trường
Công tác KNHT được bắt đầu ngay sau khi có vụ việc xảy ra là một trong những công tác quan trọng trong quá trình giải quyết án hình sự, nó là tiền đề để các cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết vụ án được khách quan, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Thực hiện tốt công tác này sẽ giúp cho việc điều tra, truy tố, xét xử đạt hiệu quả, chất lượng cao. Quá trình KNHT, khám nghiệm tử thi phải thật tỷ mỉ, thận trọng, thu thập đầy đủ dấu vết để lại tại hiện trường, đặc biệt là hiện trường những vụ chết người, các vụ TNGT đường bộ, đường thủy, các vụ cố ý gây thương tích có nhiều đối tượng, nhiều nạn nhân…Từ kết quả KNHT có thể giúp nhận định có hay không dấu hiệu tội phạm, làm cơ sở ra quyết định khởi tố hay không khởi tố vụ án và căn cứ để chứng minh tội phạm cho quá trình điều tra sau này. Đây là bước đầu tiên xử lý những thông tin, dấu vết liên quan hành vi phạm tội, vì thế sự phối hợp giữa các lực lượng tham gia khám nghiệm có mối quan hệ chặt chẽ cũng như đảm bảo tính định hướng trong công tác điều tra.
Trong thời gian qua hoạt động KSKNHT, được lãnh đạo, cán bộ, KSV trong đơn vị đặc biệt quan tâm. Khi nhận được tin báo cơ quan Điều tra luôn kịp thời thông báo cho VKS trước khi tiến hành khám nghiệm. KSV phối hợp chặt chẽ với ĐTV. Các yêu cầu của KSV trong quá trình kiểm sát việc KNHT, khám nghiệm tử thi đều được ĐTV chủ trì khám nghiệm thực hiện triệt để, đầy đủ. Trong thời gian qua không có trường hợp nào ĐTV không thực hiện các yêu cầu của KSV. Khi nhận được tin báo, cơ quan điều tra phân công ĐTV, thông báo cho VKS kịp thời và trưng cầu bác sĩ pháp y. Các trường hợp khám nghiệm tử thi đều lập biên bản
khám nghiệm tử thi cẩn thận, có bản ảnh tử thi minh họa cho biên bản khám nghiệm tử thi, sơ đồ hiện trường có tử thi. Đồng thời KNHT một cách kịp thời, ghi nhận dấu vết và thu giữ vật chứng đúng theo trình tự, thủ tục của BLTTHS quy định.
Làm tốt công tác phối hợp, sau khi tiếp nhận thông tin, cơ quan điều tra đã thành lập HĐKN và có kế hoạch chi tiết để KNHT; về cơ bản các vụ KNHTĐTV đều thực hiện nghiêm theo quy định tại Điều 201, Điều 202 BLTTHS năm 2015, đều thông báo cho VKS cùng cấp biết để cử KSV tham gia giám sát việc KNHT. ĐTV và KSV trước khi tiến hành KNHT đã trao đổi sơ bộ về nội dung vụ việc xảy ra, trên cơ sở đó đi đến thống nhất về phương thức, cách thức tiến hành khám nghiệm. Sau các cuộc KNHTKSV và ĐTV đều tổng hợp các biên bản có liên quan, và trao đổi về kế hoạch điều tra sắp tới, đồng thời báo cáo lãnh đạo của hai cơ quan để chỉ đạo cụ thể. Trong quá trình khám nghiệm ĐTV và KSV đã thực hiện tốt quy định của tố tụng về chức năng nhiệm vụ theo quy định tại các Điều 36, 37, 41, 32 BLTTHS năm 2015.
- Duy trì tốt mối quan hệ phối hợp giữa cơ quan CSĐT và VKS trong công tác KNHT. Cơ quan điều tra phải kịp thời thông báo cho VKS trước khi tiến hành khám nghiệm. Việc không thông báo trước cho VKS được coi là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng và kết quả của hoạt động KNHT không có sự tham gia của KSV là không có giá trị chứng minh tội phạm. Ban hành quy chế phối hợp giữa cơ quan điều tra và VKS trong hoạt động kiểm sát việc KNHT trong đó quy định từng thao tác cụ thể mà ĐTV, KSV cần thực hiện, đặc điểm hoạt động kiểm sát đối với một số loại hiện trường vụ án….
- Trong những trường hợp cần thiết thì Lãnh đạo cơ quan CSĐT, VKS trực tiếp tham gia khám nghiệm.
Phối hợp giữa lực lượng CSGT với CSĐT trong KNHT, đây là nội dung quan hệ phối hợp phổ biến và quan trọng nhất trong hoạt động điều tra ban đầu các vụ án TNGT. Thực hiện quan hệ phối hợp này có hiệu quả là điều kiện cơ bản để đảm bảo nâng cao hiệu quả công tác điều tra xử lý TNGT theo đúng quy định của pháp luật.
Do đó, trong trường hợp vụ TNGT xảy ra, lực lượng CSGT, lực lượng CSĐT phải chủ động phối hợp và phối hợp với tinh thần trách nhiệm cao nhất trong hoạt động điều tra KNHT.