Kiểm Sát Đối Tượng Và Phương Pháp Khám Nghiệm Hiện Trường Của Các Vụ Tai Nạn Giao Thông

đồ, bản ảnh, vật chứng thu giữ… giúp chúng ta có cái nhìn tổng thể về diễn biến vụ TNGT đã xảy ra. KSV căn cứ vào kết quả khám nghiệm (thể hiện tại hồ sơ khám nghiệm) để báo cáo trước Lãnh đạo Viện từ đó đề ra những yêu cầu xác minh, yêu cầu điều tra bảo đảm tính chính xác, phù hợp.

1.2.3. Kiểm sát đối tượng và phương pháp khám nghiệm hiện trường của các vụ tai nạn giao thông

1.2.3.1. Kiểm sát đối tượng của khám nghiệm hiện trường tai nạn giao thông

Đối tượng của KSKNHT, khám nghiệm tử thi là việc tuân theo pháp luật của các thành viên trong HĐKN và những người có liên quan đến việc KNHT, bao gồm: ĐTV là người chủ trì khám nghiệm; cán bộ điều tra được phân công giúp việc cho ĐTV; cán bộ KTHS thực hiện các công tác chuyên môn nghiệp vụ như: Chụp ảnh hiện trường; vẽ sơ đồ hiện trường; lập biên bản KNHT; bác sỹ pháp y khám nghiệm tử thi. Ngoài ra, KSV còn kiểm sát các hành vi của các chủ thể khác như người chứng kiến, người gây tai nạn, bị hại, người làm chứng tham gia tham dự việc khám nghiệm.

Mọi hoạt động của các chủ thể trên đều phải tuyệt đối tuân thủ quy định của pháp luật:

- Đối với việc tuân theo pháp luật của ĐTV: Với vai trò là người được phân công chủ trì cuộc khám nghiệm, ĐTV cần có chuyên môn nghiệp vụ, quá trình khám nghiệm luôn phải tôn trọng sự thật khách quan của vụ việc, có định hướng đúng đắn để đưa ra phương pháp khám nghiệm và phân công nhiệm vụ cho từng thành viên trong Hội đồng phù hợp nhất. Không được đưa ra những nhận định chủ quan của mình, không được bỏ qua dấu vết, vật chứng dù là nhỏ nhất và không vội kết luận dấu vết không có giá trị trong quá trình chứng minh tội phạm.

- Đối với việc tuân theo pháp luật của các cán bộ kỹ thuật: Yêu cầu đưa ra đối với cán bộ kỹ thuật là phải có chuyên môn sâu về công tác khám nghiệm, những hoạt động của chủ thể này phải đạt độ chính xác cao nhất. Tiến hành khám nghiệm phải tỉ mỉ, thận trọng; phát hiện và thu thập dấu vết, vật chứng phải đúng quy trình, thủ tục theo quy định để đảm bảo tính pháp lý của vật chứng đó.

- Đối với việc tuân theo pháp luật của những người chứng kiến, người biết việc: Yêu cầu phải khai báo trung thực, khách quan những gì đã tận mắt trông thấy, không được phán đoán những gì không tận mắt trông thấy vì có thể sẽ dẫn đến việc

cán bộ điều tra có những định hướng sai lầm.

- Đối với việc tuân theo pháp luật của Bác sĩ pháp y: Tại hiện trường nếu cần thiết thì bác sĩ pháp y phải xem xét dấu vết trên cơ thể nạn nhân, cơ chế hình thành nên dấu vết và đặc điểm dấu vết để lại trên cơ thể nạn nhân là gì. Điều này giúp định hướng cho quá trình khám nghiệm cũng như công tác điều tra sau này. Vì vậy, mọi kết luận của bác sĩ pháp y phải trên cơ sở căn cứ khoa học, không được chủ quan phán đoán dựa vào kinh nghiệm.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 95 trang tài liệu này.

1.2.3.2. Kiểm sát phương pháp khám nghiệm hiện trường nạn giao thông

Hiện trường TNGT thường xảy ra với khoảng không gian rộng. Tuỳ thuộc vào tính chất và mức độ thiệt hại về người và tài sản, các dấu vết tồn tại tại hiện trường mà định ra phương pháp khám nghiệm cho phù hợp với hiện trường đó.

Kiểm sát khám nghiệm hiện trường tai nạn giao thông từ thực tiễn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai - 5

Phương pháp KNHT TNGT ở đây chủ yếu dựa vào tính chất của vụ việc được nhận định. Qua phân tích tình hình hiện trường và những thông tin đã thu được để đi đến nhận định về diễn biến của vụ việc, từ đó định ra phương pháp khám nghiệm cho phù hợp với từng loại hiện trường. Vì vậy, trước khi tiến hành khám nghiệm, HĐKN cần họp bàn và đưa ra phương pháp khám nghiệm cho phù hợp với từng loại hiện trường TNGT cụ thể. KSV yêu cầu ĐTV chủ trì khám nghiệm trình bày trước Hội đồng những nội dung như:

- Nhận định hướng chuyển động của các phương tiện.

- Nhận định vị trí va chạm của các phương tiện.

Hiện trường được khám nghiệm lần lượt dựa vào mối quan hệ giữa quá trình va chạm với những dấu vết để lại trên hiện trường và mối quan hệ giữa các dấu vết với nhau.

Khi tiến hành khám nghiệm cần phải xác định hướng tiến hành, lấy bên nào (trái hay phải đường) làm chuẩn và chỉ tiến hành định vị các dấu vết về phía đó, kể cả vật chuẩn trên đường để định vị vị trí của các dấu vết.

Có 4 phương pháp KNHT nói chung, đó là:

- Phương pháp khám nghiệm lần theo dấu vết:

Phương pháp khám nghiệm lần theo dấu vết là phương pháp được tiến hành theo trình tự điểm bắt đầu và điểm tiếp theo. Điểm bắt đầu khám nghiệm thường là điểm có nhiều dấu vết, vật chứng và điểm tiếp theo là hướng vận động của thủ phạm tại hiện trường hoặc hướng để lại các dấu vết tiếp theo trên hiện trường.

Phương pháp khám nghiệm này thường được áp dụng trong KNHT vụ án trộm cắp, vụ cháy, hiện trường có tử thi.. .Trong hiện trường các vụ trộm thì điểm bắt đầu khám nghiệm là điểm mà thủ phạm đột nhập vào nhà để trộm cắp tài sản, sau đó khám nghiệm theo hướng vận động của thủ phạm tại hiện trường. Trong KNHT các vụ cháy thì điểm bắt đầu khám nghiệm là điểm phát cháy đầu tiên, sau đó khám nghiệm theo hướng lan tỏa của ngọn lửa. Trong hiện trường các vụ có người chết thì điểm bắt đầu khám nghiệm là từ tử thi, sau đó khám nghiệm theo hướng vận động của thủ phạm tại hiện trường.

- Phương pháp chia ô, chia khu vực:

Phương pháp chia ô, chia khu vực là phương pháp tiến hành chia hiện trường ra thành nhiều ô, khu vực khác nhau sau đó tiến hành khám nghiệm từng ô, từng khu vực, tạo điều kiện tiến hành khám nghiệm một cách hệ thống, tỉ mỉ tránh để sót, lọt các dấu vết, vật chứng.

Phương pháp này thường được áp dụng đối với những hiện trường rộng, có cấu trúc phức tạp, ta dựa vào những điều kiện tự nhiên, sẵn có của hiện trường để phân chia cho hợp lý. Để khắc phục nhược điểm khi khám nghiệm từng ô, từng khu vực độc lập với nhau, toàn bộ quá trình khám nghiệm phải được tổ chức thống nhất và kết quả khám nghiệm phải được đánh giá trong mối quan hệ chặt chẽ trong tổng thể của hiện trường.

- Phương pháp khám nghiệm cuốn chiếu:

Phương pháp khám nghiệm cuốn chiếu là phương pháp khám nghiệm theo trình tự lần lượt từ đầu đến cuối hiện trường theo một trật tự thống nhất.

Phương pháp khám nghiệm này có ưu điểm là hiện trường được khám nghiệm có hệ thống. Khi tiến hành phương pháp khám nghiệm này có thể tiến hành từ trong ra ngoài hoặc từ ngoài vào trong tùy thuộc vào từng loại hiện trường cụ thể trong từng tình huống cụ thể để quyết định cho phù hợp.

- Phương pháp khám nghiệm theo hình xoáy ốc:

Phương pháp khám nghiệm theo hình xoáy ốc là phương pháp được tiến hành khám nghiệm từ ngoài vào trung tâm hoặc từ trung tâm ra ngoài theo hình xoáy ốc, có thể tiến hành thuận chiều kim đồng hồ hoặc ngược chiều kim đồng hồ.

Phương pháp này thường được áp dụng đối với những hiện trường rộng ngoài trời, giúp cho cán bộ khám nghiệm có điều kiện xem xét hiện trường một

cách tỉ mỉ, phát hiện được tất cả các dấu vết, vật chứng có ở hiện trường.

Thông thường với những vụ TNGT đặc biệt là TNGT đường bộ thường áp dụng phương pháp khám nghiệm theo hình xoáy ốc từ trong trung tâm (nơi đổ hoặc vị trí dừng của các phương tiện) ra xung quanh hoặc theo cách cuốn chiếu.

Với phương pháp này toàn bộ diện tích của hiện trường được khám nghiệm có hệ thống và tỉ mỉ, có thể phát hiện hầu hết những dấu vết, vật chứng và đặc điểm đã thấy ờ hiện trường.

Để đánh giá những dấu vết, vật chứng đó có liên quan trực tiếp đến vụ TNGT đường bộ này hay không, cần phải xem xét mối quan hệ nhân quả với những vật gây ra và đã để lại dấu vết, vật chứng đó. Từ đó có thể nhận định về diễn biến của vụ tai nạn và tìm ra những cơ sở khách quan để đánh giá về quá trình xảy ra tai nạn.

Lưu ý không được đưa ra những nhận định chủ quan của mình vào biên bản và sơ đồ hiện trường như nhận định về hướng chuyển động của phương tiện, nhận định về lỗi của các bên… Không được bỏ qua bất kỳ những dấu vết, vật chứng nào tìm thấy và không vội kết luận dấu vết đó có liên quan hay không liên quan đến quá trình điều tra giải quyết đối với vụ tai nạn.

Tóm lại: Để đạt được kết quả tốt trong công tác KNHT TNGT đường bộ, trước hết phải đánh giá tình hình toàn diện vụ tai nạn, dựa vào tính chất của vụ tai nạn, tìm cơ sở và điểm xuất phát để áp dụng phương pháp khám nghiệm cho phù hợp.

Kết luận chương 1

Chương này tác giả đã trình bày khái quát nhất về công tác KNHT và công tác kiểm sát việc KNHT. Tác giả đã đi sâu phân tích, làm rò các khái niệm và các cơ sở pháp lý của công tác KNHT cũng như công tác KSKNHT. Ngoài ra, thông qua hoạt động kiểm sát, tác giả cũng đã đi sâu vào chi tiết về trình tự, thủ tục và phương pháp tiến hành KNHT TNGT để đạt hiệu quả cao nhất, mang tính khách quan và chính xác nhất. Những nội dung của chương 1 là tiền đề và cơ sở cho việc nghiên cứu và trình bày nội dung chương tiếp theo của luận văn.

Chương 2

THỰC TIỄN VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ KIỂM SÁT KHÁM NGHIỆM HIỆN TRƯỜNG CÁC VỤ ÁN TAI NẠN GIAO THÔNG


2.1. Tình hình tai nạn giao thông và thực tiễn kiểm sát khám nghiệm hiện trường các vụ tai nạn giao thông trên địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai

2.1.1. Tình hình vụ án tai nạn giao thông trên địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai

2.1.1.1. Đặc điểm địa lý, dân cư của địa bàn nghiên cứu

Ở Việt Nam, ngành giao thông luôn được Đảng, Nhà nước ta đánh giá là ngành kinh tế quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đấu tranh giải phóng dân tộc, phát triển đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt trong thời kỳ đổi mới, để thực hiện thắng lợi cách mạng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, Đảng và nhà nước ta đã quan tâm đầu tư mạnh mẽ cho ngành giao thông, xác định giao thông là ngành kinh tế trọng điểm mũi nhọn để tạo tiền đề, nền tảng cho sự phát triển của nền kinh tế. “Điện, Đường, Trường, Trạm” là đường lối chiến lược phát triển xuyên suốt trong toàn bộ quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam. Trong những năm qua, Việt Nam hội nhập quốc tế sâu rộng trong mọi lĩnh vực, do vậy nhu cầu giao thông đi lại, vận chuyển hàng hóa tăng cao, đòi hỏi sự đáp ứng của ngành giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy và đường hàng không. Hiện nay, ngành giao thông đường bộ phát triển mạnh mẽ với hệ thống đường cao tốc Bắc Nam, cao tốc nối thủ đô Hà Nội với các tỉnh thành, kết nối vào hệ thống giao thông khu vực và quốc tế như với Trung Quốc, Lào, Campuchia... Hệ thống đường sắt được nâng cấp, tăng cường kết nối giữa các tỉnh từ biên giới phía Bắc đến thành phố Hồ Chí Minh. Ngành giao thông đường thủy, đường không Việt Nam đã thiết lập mạng lưới giao thông trên cả nước, hàng chục tuyến bay nội địa nối thủ đô Hà Nội với các tỉnh thành, hàng chục tuyến đường bay quốc tế đến các nước và khu vực trên thế giới. Các tuyến đường giao thông quốc gia, khu vực quốc tế được hình thành và phát triển góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy sự phát triển của đất nước trong mọi lĩnh vực kinh tế, quốc phòng, văn hóa, ngoại giao, làm đổi mới bộ

mặt đất nước, nâng cao vị trí của Việt Nam trên trường quốc tế, góp phần đảm bảo an sinh, ổn định xã hội, nâng cao đời sống cho con người.

Tuy nhiên, tình hình giao thông phát triển mạnh mẽ cả về số lượng hạ tầng cơ sở lẫn thành phần phương tiện tham gia giao thông đã gây ra tình trạng TNGT vô cùng nghiêm trọng, phức tạp ở nước ta, gây mất trật tự, an toàn giao thông công cộng, gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe và tài sản cho nhân dân, là lực cản cho sự phát triển kinh tế xã hội và xây dựng đất nước.

Đồng Nai là một tỉnh Miền Đông Nam bộ nằm trong khu kinh tế trọng điểm Đồng Nai - Bình Dương - Thành phố Hồ Chí Minh - Bà Rịa Vũng Tàu, có tình hình giao thông rất phức tạp. Trong đó, thành phố Biên Hòa là đơn vị có dân cư đông nhất và các tuyến đường giao thông cũng phức tạp nhất. Một số đường trên địa bàn tỉnh tuy được nâng cấp, sửa chữa nhưng còn hạn chế và chưa đáp ứng được yêu cầu giao thông. Do đặc điểm vị trí địa lý tiếp giáp với tỉnh Bình Dương và thành phố Hồ Chí Minh, có 03 quốc lộ lớn là Quốc lộ 1A, Quốc lộ 1K và Quốc lộ 51 trải dài toàn thành phố và tuyến đường sắt bắc nam chạy xuyên suốt, vì vậy lưu lượng phương tiện giao thông từ các tỉnh khác, huyện khác qua lại địa phương là rất lớn. Do đó, tình hình trật tự an toàn giao thông nói chung và tình hình TNGT trên địa bàn thành phố Biên Hòa những năm gần đây có nhiều diễn biến phức tạp. Đặc biệt, trong đó các vụ gây hậu quả nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng ngày càng có xu hướng gia tăng.

Tỉnh Đồng Nai nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam thuộc Đông Nam Bộ, trong đó thành phố Biên Hòa đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của toàn tỉnh. Thành phố Biên Hòa là là đầu mối giao thông quan trọng của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, có sông Đồng Nai chảy qua, tuyến đường sắt bắc nam xuyên suốt thành phố, tiếp giáp với thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Bình Dương. Biên Hòa là thành phố thuộc tỉnh có dân số đông nhất nhì cả nước, trên địa bàn thành phố có nhiều tuyến giao thông huyết mạch nối với các tỉnh và các khu công nghiệp lớn như Quốc lộ 1A (chiều dài đi qua là 13 km), Quốc lộ 1K (chiều dài đi qua là 14 km) và Quốc lộ 51 (chiều dài đi qua là 16 km). Về dân cư: Biên Hòa có hơn 1 triệu dân sinh sống, số người này phần lớn là ở nông thôn ra tập trung nhiều ở các khu công nghiệp làm cho tình hình trật tự an toàn giao thông trên địa bàn càng trở nên phức tạp.


Nguyên nhân của tình hình TNGT trên địa bàn xảy ra nhiều là do công tác quản lý nhà nước về trật tự an toàn giao thông còn bị buông lỏng trên nhiều lĩnh vực, việc ban hành các văn bản pháp quy chậm, thiếu đồng bộ; quản lý nhà nước về hành lang an toàn giao thông và giao thông đô thị, có nhiều kết cấu hạ tầng không phù hợp dễ gây tai nạn, quản lý đào tạo, sát hách và cấp giấy phép lái xe chưa chặt chẽ. Phương tiện giao thông cơ giới đường bộ và lưu lượng người tham gia giao thông tăng lên rất nhanh vượt quá khả năng đáp ứng của kết cấu hạ tầng.

Hệ thống giao thông trên địa bàn tuy đã được nâng cấp, sữa chữa nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu lưu thông ngày càng tăng của các loại phương tiện. Đặc biệt trong những năm gần đây số lượng phương tiện giao thông cơ giới đường bộ được đăng ký lưu hành trên địa bàn tỉnh ngày càng tăng với tỉ lệ cao. Mặt khác, Do trên địa bàn thành phố Biên Hòa tập trung nhiều khu công nghiệp, công ty, xí nghiệp, thu hút được nhiều vốn đầu tư, thu hút nhiều người dân ở các tỉnh đến làm việc, một phần do chưa nắm được quy luật hoạt động giao thông, chưa thông thạo các tuyến đường, một phần do không hiểu biết các quy định của luật giao thông gây khó khăn cho công tác điều hòa giao thông dẫn đến TNGT. Trong khi đó đa phần người điều khiển phương tiện, tham gia giao thông đều không nắm vững các quy định của luật giao thông, đặc biệt là ý thức chấp hành luật giao thông của các đối tượng là thanh thiếu niên còn nhiều hạn chế. Số học sinh đi học sử dụng xe phân khối lớn hoặc tụ tập tổ chức đua xe, lạng lách xe… ngày càng gia tăng làm cho tình hình trật tự an toàn giao thông nói chung tình hình TNGT nói riêng trong nhiều năm gần đây càng trở nên phức tạp và nghiêm trọng gây thiệt hại lớn về người và của.

Đáng chú ý, trong những năm gần đây hoạt động của hệ thống ô tô tải ben chở đất, đá, cát… có chiều hướng phát triển mạnh. Do lợi nhuận kinh tế họ đã nới thùng xe, bửng xe để tăng tải, tăng chuyến tăng vòng để nhanh chóng thu hồi vốn, chạy quá tốc độ, vượt ẩu … gây ra rất nhiều những vụ TNGT mà hậu quả để lại hết sức nặng nề.

2.1.1.2. Tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa và quan hệ phối hợp giữa Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa với các cơ quan liên quan.

Hệ thống tổ chức bộ máy VKSND gồm có: VKSND tối cao, VKSND cấp cao, VKSND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (gọi tắt là VKSND cấp tỉnh),

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 24/06/2022