Phương Pháp Kiểm Sát Khám Nghiệm Hiện Trường Tai Nạn Giao Thông

TNGT cho cơ quan điều tra. Do vậy, CSGT cần phải nhanh chóng xác định những người biết sự việc, để sơ vấn nhằm thu thập các thông tin cần thiết phục vụ cho quá trình điều tra khám phá.

Lỗi của người gây ra trong vụ án TNGT đường bộ thường là lỗi vô ý (vô ý do quá tự tin hoặc vô ý do cẩu thả), do vi phạm các quy định về trật tự an toàn giao thông, vì sợ trách nhiệm hình sự họ thường che giấu hành vi vi phạm, tìm cách đổ lỗi cho người khác hoặc đổ lỗi cho khách quan, trốn tránh sự điều tra của cơ quan Công an hoặc gây gỗ, đòi tự xử lẫn nhau, gây khó khăn cho công tác điều tra. Mặt khác, người gây ra tai nạn thường tìm đến người bị hại, người đại diện hợp pháp của người bị hại để thoả thuận với nhau về trách nhiệm, mức độ bồi thường thiệt hại (vấn đề trách nhiệm dân sự) và xin người bị hại, người đại diện hợp pháp của người bị hại viết đơn xin miễm truy cứu trách nhiệm hình sự cho người gây ra. Do vậy, người bị hại, người đại diện hợp pháp của người bị hại thường viết đơn xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự cho người gây ra tai nạn, mục đích là thoả thuận số tiền đền bù dân sự, để giải quyết những khó khăn tạm thời cho người bị hại. Đây cũng là vấn đề cần phải nghiên cứu và giải quyết trong việc thi hành án hiện nay.

Hậu quả do vụ án TNGT gây ra thiệt hại cho sức khoẻ của nạn nhân thường bị biến đổi, nạn nhân bị thương đang trong quá trình điều trị do tác động của vết thương, của các bệnh khác hoặc do can thiệp sai của y tế, của việc chăm sóc nạn nhân ... mà đã xảy ra từ bị thương nhẹ thành bị thương nặng hoặc tử vong. Điều này dẫn đến thay đổi chủ thể điều tra và quan hệ phối hợp trong hoạt động điều tra. Song hiện nay chưa quy định thời gian nạn nhân chết sau khi bị tai nạn là bao nhiêu được coi là chết do TNGT; hoặc sau bao nhiêu ngày phải có kết luận giám định thiệt hại sức khoẻ cho nạn nhân sau khi bị TNGT. Đây cũng là một vấn đề gây khó khăn cho quá trình tổ chức hoạt động điều tra và thực hiện mối quan hệ phối hợp trong quá trình điều tra của CSGT và CSĐT.

Bởi các lẽ trên, với vai trò kiểm sát toàn bộ quá trình KNHT TNGT, hoạt động KSKNHT có những đặc điểm cơ bản sau đây:

- Thực hiện kiểm sát một cách kịp thời sau khi vụ TNGT xảy ra: Xuất phát từ thực tế hiện trường TNGT thường để lại trên các tuyến đường, địa bàn giao thông công cộng. Đây là những nơi có nhiều người, phương tiện qua lại nên dễ bị mất dấu vết, vật chứng; hiện trường dễ bị xáo trộn. Các vụ tai nạn thường gây cản trở, ùn tắc

giao thông, người biết sự việc thường không ở lại lâu nơi xáy ra tai nạn... Vì vậy, khi phát hiện hoặc nhận được tin háo có vụ TNGT xảy ra, KSV phải nhanh chóng, kịp thời có mặt tại hiện trường vụ TNGT để kiểm sát các hoạt động của HĐKN và đưa ra yêu cầu, kiến nghị kịp thời khi phát hiện có vi phạm, thiếu sót.

- Quá trình kiểm sát khám nghiệm phải bảo đảm tính tỷ mỹ, chính xác: Hoạt động KNHT là để làm rò diễn biến, nguyên nhân cũng như bản chất của vụ việc, chứng minh rò lỗi của các bên có liên quan để xử lý công minh trước pháp luật. Do đó, KSV trực tiếp tiến hành việc kiểm sát phải hết sức thận trọng, tỷ mỹ, khoa học, chính xác và không cho phép HĐKN được bỏ sót bất kỳ chi tiết nào dù là nhỏ nhất. Để xác định đúng người, đúng lỗi vi phạm trong vụ TNGT đòi hỏi quá trình kiểm sát phải được tiến hành một cách tỷ mỹ, chính xác trong tất cả quá trinh tiến hành thu thập tài liệu, chứng cứ.

- Quá trình kiểm sát phải bảo đảm tính khách quan, toàn diện: Tôn trọng thực tế khách quan là nguyên tắc cơ bản trong hoạt động điều tra nói chung và điều tra, xử lý vụ TNGT nói riêng nhằm đảm bảo được tính công bằng của pháp luật. Ngoài ra, phải tổng hợp đầy đủ các tài liệu, dấu vết, vật chứng mới đủ cơ sở xác định diễn biến, nguyên nhân, đủ căn cứ quy kết lỗi cùa các bên có liên quan đến vụ tai nạn.

KSV phải yêu cầu và phối hợp với các chủ thể tiến hành khám nghiệm nghiên cứu tổng hợp đánh giá toàn bộ hồ sơ vụ án, phân tích cụ thể từng chi tiết, dấu vết, vật chứng, người biết sự việc... để có đủ căn cứ nhận định và kết luận về nguyên nhân, diễn biến của vụ tai nạn. Nếu phát hiện mâu thuẫn, KSV phải yêu cầu điều tra làm rò theo đúng các quy luật khách quan, tuyệt đối không được dựa vào ý chí chủ quan để đánh giá vấn đề. Đặc biệt, đòi hỏi những người có thẩm quyền phải có đức tính trung thực không được tuỳ tiện hoặc vì mưu cầu lợi ích cá nhân để làm sai lệch dấu vết vật chứng (đặc biệt là trong khâu khám nghiệm, đo vẽ hiện trường) để đảm bảo tính khách quan của quy luật hình thành dấu vết và toàn bộ diễn biến vụ tai nạn.

- Quá trình kiểm sát cần tuân thủ đúng quy định của pháp luật: Quá trình KSKNHT TNGT phải tuân thủ theo các quy định cùa pháp luật (BLHS, BLTTHS, Luật Giao thông đường bộ...). Yêu cầu HĐKN phát hiện, thu thập tài liệu, vật chứng liên quan đến vụ TNGT phải đúng quy định của pháp luật, đảm bảo giá trị pháp lý để xử lý vụ tai nạn, xử lý người phạm tội trước pháp luật, góp phần nâng cao pháp chế xã hội chủ nghĩa.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 95 trang tài liệu này.

Để đạt được những yêu cầu trên, đòi hỏi KSV khi tiến hành hoạt động KSKNHT phải nắm chắc những quy định của pháp luật có liên quan đến KNHT để xem xét xem HĐKN có tuân thủ đúng các quy định đó hay không; ngoài ra để hoạt động kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường được tiến hành đạt hiệu quả cao thì KSV phải nắm vững những quy định của ngành Kiểm sát về chức năng, nhiệm vụ, phương pháp kiểm sát việc KNHT nhằm kịp thời phát hiện những vi phạm pháp luật yêu cầu HĐKN khắc phục ngay, với những vi phạm nghiêm trọng cần kiến nghị yêu cầu Cơ quan điều tra xử lý nghiêm minh hoặc qua đó kiến nghị với các cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật.

1.1.1.3. Phương pháp kiểm sát khám nghiệm hiện trường tai nạn giao thông

Kiểm sát khám nghiệm hiện trường tai nạn giao thông từ thực tiễn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai - 3

Kiểm sát việc KNHT các vụ TNGT là hoạt động thực hiện quyền năng pháp lý của KSV kiểm sát việc tuân theo pháp luật các chủ thể tiến hành KNHT nhằm bảo đảm việc KNHT được tuân thủ đúng các quy định của pháp luật để phát hiện, thu thập dấu vết, vật chứng của tội phạm và làm sáng tỏ các tình tiết có ý nghĩa đối với vụ án. Để làm tốt được điều đó, KSV cần có phương pháp kiểm sát khám nghiệm khoa học, hiệu quả, bảo đảm cho quá trình khám nghiệm đạt chất lượng cao nhất.

Quy chế công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, điều tra và truy tố (Ban hành kèm theo Quyết định số 111/QĐ-VKSTC ngày 17/4/2020 của Viện trưởng VKSND tối cao) mặc dù không nêu cụ thể từng phương pháp nhưng căn cứ nội dung quy chế ta có thể phân chia:

- Kiểm sát trực tiếp: BLTTHS đã quy định bắt buộc KSV phải có mặt để KSKNHT. Thông qua hoạt động này, KSV có trách nhiệm bảo đảm cho việc KNHT của HĐKN thực hiện đúng quy định bảo đảm tính khách quan, chân thực của sự việc. Hoạt động kiểm sát của KSV được tiến hành thông qua các giai đoạn của quá trình khám nghiệm: kiểm sát trước khi tiến hành KNHT; kiểm sát trong quá trình KNHT; kiểm sát sau khi kết thúc kiểm sát việc KNHT.

Đối với phương pháp kiểm sát này, Kiểm sát viên trực tiếp tham gia kiểm sát hoạt động thu thập dấu vết, vật chứng của HĐKN: Kiểm sát chặt chẽ việc KNHT, kịp thời đề ra các yêu cầu cho ĐTV, cán bộ điều tra, người có chuyên môn, Giám định viên KTHS, Giám định viên pháp y thu thập, làm rò các dấu vết thương tích, giải phẫu tử thi để sơ bộ kết luận về nguyên nhân vụ tai nạn, để phục vụ công tác

truy nguyên hình sự và truy tìm người phạm tội đối với những vụ tai nạn bỏ chạy. Cuối cùng là kiểm sát việc lập hồ sơ khám nghiệm: Tiến hành kiểm tra, đối chiếu giữa sơ đồ hiện trường, biên bản KNHT, thực nghiệm điều tra và các tài liệu liên quan khác so với thực tế hiện trường, diễn biến quá trình KNHT, khám nghiệm tử thi, thực nghiệm điều tra để bảo đảm chính xác, khách quan, toàn diện và theo đúng quy định của pháp luật.

- Kiểm sát thông qua hồ sơ khám nghiệm: Do thực tiễn các quy định của pháp luật về sự tham gia của KSV vào quá trình khám nghiệm hiện trường còn nhiều điểm chưa phù hợp. Khi tai nạn giao thông xảy ra rất nhiều tình huống không dự liệu được hậu quả của vụ tai nạn. Vì vậy, có rất nhiều vụ tai nạn xảy ra nhưng không có sự tham gia của KSV ngay từ ban đầu để thực hiện việc kiểm sát quá trình khám nghiệm. Đối với những trường hợp này, KSV thực hiện việc kiểm sát thông qua hồ sơ khám nghiệm. KSV thực hiện việc kiểm tra, đối chiếu giữa sơ đồ hiện trường, biên bản KNHT, khám nghiệm tử thi và các tài liệu liên quan khác để đưa ra yêu cầu điều tra: dựng lại hiện trường, thực nghiệm điều tra nhằm làm rò diễn biến, nguyên nhân của vụ tai nạn để có cơ sở tiến hành các biện pháp nghiệp vụ tiếp theo.

Khi tiến hành KSKNHT nói chung và hiện trường TNGT nói riêng thì KSV cần phải nắm chắc những quy định của pháp luật có liên quan đến KSKNHT để tự hình thành cho bản thân kỹ năng nghiệp vụ chuyên sâu, nhạy bén, sử dụng các phương pháp kiểm sát khám nghiệm hiện trường một cách nhuần nhuyễn để đạt hiệu quả cao nhất.

1.1.2. Mục đích, ý nghĩa của kiểm sát khám nghiệm hiện trường các vụ tai nạn giao thông

1.1.2.1. Mục đích của kiểm sát khám nghiệm hiện trường tai nạn giao thông.

Đối với KSKNHT TNGT, căn cứ Quy chế công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, điều tra và truy tố (Ban hành kèm theo Quyết định số 111/QĐ-VKSTC ngày 17/4/2020 của Viện trưởng VKSND tối cao) mục đích của hoạt động KSKNHT TNGT có thể khái quát ở những nội dung cơ bản sau:

- Một là, đảm bảo sự tuân thủ pháp luật trong việc KNHT:

+ KSV phải tiến hành kiểm sát về thành phần của lực lượng KNHT như số lượng, tiêu chuẩn của những thành viên trong lực lượng khám nghiệm theo quy định của pháp luật, nếu thành phần không đúng thì kết quả cuộc khám nghiệm không đạt được, chưa muốn nói là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.

+ KSV phải tiến hành kiểm sát chặt chẽ quy trình tiến hành khám nghiệm hiện trường của lực lượng KNHT: từ khâu tiếp quản hiện trường, đến việc quan sát hiện trường, hoạt động khám nghiệm tỷ mỹ hiện trường, đảm bảo diễn ra đúng theo quy định của pháp luật.

+ Kiểm sát chặt chẽ về trình tự, thủ tục tiến hành khám nghiệm như: việc lập biên bản khám nghiệm, việc ra các quyết định trưng cầu khám nghiệm, việc lập hồ sơ KNHT… đã đầy đủ về nội dung chưa, còn thiếu những vấn đề gì, để yêu cầu lực lượng khám nghiệm bổ sung cho kịp thời.

Nghiên cứu, phát hiện, thu thập, bảo quản và khai thác các dấu vết, vật chứng, tin tức liên quan đến vụ TNGT tại hiện trường nhằm xác định có hay không có tội phạm xảy ra để xử lý theo quy định của pháp luật.

- Hai là: Đảm bảo mọi cuộc khám nghiệm đều phải tiến hành đầy đủ, chính xác, khách quan, toàn diện. Những vi phạm pháp luật trong quá trình khám nghiệm phải được phát hiện khắc phục kịp thời và xử lý nghiêm minh: tức hoạt động khám nghiệm phải thu thập đầy đủ, toàn diện mọi dấu vết, không được bỏ qua bất cứ một dấu vết nhỏ nào, không được vì hiện trường rộng, thời gian tiến hành khám nghiệm đã muộn, nên đã bỏ qua một số vùng ĐTV cho là không quan trọng, sau này nơi đó lại là nơi để lại dấu vết quyết định đến việc xác định lỗi của vụ tai nạn.

- Ba là: Thông qua kết quả KNHT, xem xét các dấu vết tội phạm, kết quả giám định để xác định vụ việc có dấu hiệu tội phạm hay không có dấu hiệu tội phạm. Các trường hợp sau khi khám nghiệm phát hiện có dấu hiệu tội phạm thì phải khởi tố vụ án hình sự để điều tra theo quy định của pháp luật.

1.1.2.2. Ý nghĩa của kiểm sát khám nghiệm hiện trường tai nạn giao thông

- Kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường các vụ án TNGT nhằm thu giữ đầy đủ những dấu vết vật chứng có ở hiện trường, từ kết quả này giúp để xác định các nội dung, tính chất của vụ tai nạn xảy ra, đó là hiện trường có dấu hiệu của tội phạm hay không phải hiện trường của tội phạm.

- Thông qua dấu vết vật chứng để lại ở hiện trường, cơ quan tiến hành tố tụng sẽ tiến hành mã hóa thông tin để xác định rò: ai là người thực hiện hành vi phạm tội, cách thức tiến hành ra sao, thời gian xảy ra vụ án, nguyên nhân và điều kiện dẫn đến hành vi phạm tội.

- Kết quả của hoạt động điều tra tại hiện trường sẽ là cơ sở quan trọng để Cơ

quan điều tra đưa ra những giả thuyết và kế hoạch điều tra phù hợp với diễn biến của vụ án và cũng chính là căn cứ vững chắc giúp cho KSV có những nhận định, đánh giá quan trọng về nôi dung, diễn biến và lỗi của các bên liên quan đối với vụ tai nạn xảy ra, làm căn cứ để Kiểm sát viên đề ra yêu cầu điều tra sát hợp vụ án, đồng thời phê chuẩn các quyết định của Cơ quan điều tra trong quá trình kiểm sát điều tra vụ án TNGT.

- Kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường các vụ án TNGT có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc góp phần không để lọt tội phạm cũng như không làm oan sai, nâng cao hiệu quả của công tác điều tra, phòng chống tội phạm.

1.2. Nội dung kiểm sát khám nghiệm hiện trường các vụ án tai nạn giao thông

1.2.1. Kiểm sát thẩm quyền khám nghiệm và thành phần chủ thể khám nghiệm hiện trường các vụ tai nạn giao thông

1.2.1.1. Kiểm sát về thẩm quyền khám nghiệm hiện trường tai nạn giao thông.

Xác định vụ việc TNGT thuộc thẩm quyền của ai rất quan trọng vì nó ảnh hưởng tới tính pháp lý của Biên bản KNHT và thẩm quyền điều tra sau này. Vì vậy, trước khi tiến hành khám nghiệm, vấn đề đầu tiên KSV cần làm là xem xét vụ TNGT xảy ra thuộc thẩm quyền điều tra của ai (theo cấp và theo lãnh thổ) để có căn cứ khám nghiệm theo đúng thẩm quyền.

- Về thẩm quyền tiến hành khám nghiệm theo lãnh thổ: Tại Điều 28 Quy chế công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, điều tra và truy tố (Ban hành kèm theo Quyết định số 111/QĐ-VKSTC ngày 17/4/2020 của Viện trưởng VKSND tối cao) quy định:

“Thẩm quyền thực hành quyền công tố, kiểm sát việc KNHT, khám nghiệm tử thi theo thẩm quyền giải quyết các vụ án hình sự và theo lãnh thổ”.

Thông thường khi vụ việc TNGT xảy ra nằm trên địa phận của đơn vị nào (theo địa giới hành chính) thì các cơ quan tiến hành tố tụng của đơn vị đó có thẩm quyền KNHT, khám nghiệm tử thi. Tuy nhiên, trên thực tế có rất nhiều trường hợp việc xác định thẩm quyền theo lãnh thổ gặp rất nhiều khó khăn. Cụ thể đối với thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, ngoài tiếp giáp với các huyện thị khác thuộc tỉnh Đồng Nai thì thành phố Biên Hòa còn tiếp giáp với tỉnh Bình Dương và thành phố Hồ Chí Minh. Vì vậy xảy ra nhiều trường hợp rất khó xác định thẩm quyền:

+ Trường hợp thứ nhất: Vụ TNGT xảy ra mà người và phương tiện ngã văng

nằm ở địa phận cả hai huyện. Đã có rất nhiều trường hợp hai cơ quan tiến hành tố tụng của 02 huyện liên quan tranh cãi gay gắt về vấn đề cơ quan nào có thẩm quyền tiến hành khám nghiệm. Trong trường hợp này, KSV cần nhạy bén và tổng hợp, đánh giá chứng cứ một cách chính các để xác định thẩm quyền xử lý. Tiến hành xác định chiều hướng các phương tiện liên quan đến vụ tai nạn lưu thông và xác định điểm va chạm đầu tiên (trường hợp rò hơn sẽ có vết cày xước mặt đường) là yếu tố quan trọng then chốt để xác định thẩm quyền thuộc về ai. Dù nạn nhân và phương tiện nằm ở địa phận của huyện B nhưng điểm va chạm và dấu vết nằm bên huyện A thì đương nhiên thẩm quyền xử lý thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng của huyện A và ngược lại.

+ Trường hợp thứ hai: Vụ TNGT xảy ra khi hai phương tiện đối đầu va chạm nhau ở vị trí chính giữa ranh giới chung giữa hai huyện. Trường hợp này đã xảy ra trên thực tế và rất khó phân định thẩm quyền khám nghiệm thuộc về ai vì không có quy định cụ thể cũng như không có cơ sở để xác định thẩm quyền thuộc về ai. Thực tế tại thành phố Biên Hòa, các cơ quan tiến hành tố tụng căn cứ vào việc người và phương tiện gây tai nạn ngã văng về địa phận huyện nào thì huyện đó tiến hành khám nghiệm.

- Về thẩm quyền tiến hành khám nghiệm theo cấp: Tại Điều 28 Quy chế công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, điều tra và truy tố (Ban hành kèm theo Quyết định số 111/QĐ-VKSTC ngày 17/4/2020 của Viện trưởng VKSND tối cao) quy định:

“Thẩm quyền thực hành quyền công tố, kiểm sát việc KNHT, khám nghiệm tử thi theo thẩm quyền giải quyết các vụ án hình sự và theo lãnh thổ. Các vụ án giết người, nghi giết người; các vụ tai nạn lao động, TNGT; các vụ cháy, nổ đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp hoặc các vụ việc xảy ra có liên quan đến yếu tố nước ngoài; các vụ việc đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp khác do Cơ quan điều tra cấp tỉnh, Cơ quan điều tra quân sự cấp quân khu tiến hành khám nghiệm thuộc thẩm quyền thực hành quyền công tố, kiểm sát của VKSND cấp tỉnh, VKS quân sự cấp quân khu”.

Theo quy định của BLHS hiện hành thì án liên quan đến TNGT là lỗi vô ý nên khung hình phạt cao nhất là 15 năm tù (thuộc trường hợp rất nghiêm trọng) nên thẩm quyền giải quyết thuộc về Cơ quan tiến hành tố tụng cấp quận, huyện. Tuy nhiên, các vụ TNGT có liên quan đến yếu tố nước ngoài lại thuộc thẩm quyền của

Cơ quan tiến hành tố tụng cấp tỉnh. Vì vậy, Quy chế đã nêu rất cụ thể về thẩm quyền thực hành quyền công tố, kiểm sát việc KNHT, khám nghiệm tử thi.

Trách nhiệm của KSV khi tiến hành kiểm sát khám nghiệm là phải nắm rò nội dung vụ tai nạn, những người liên quan đến vụ tai nạn để xác định thẩm quyền tiến hành khám nghiệm thuộc về ai. Nếu thuộc thẩm quyền của Cơ quan tiến hành tố tụng cấp tỉnh thì báo cáo Lãnh đạo Viện và yêu cầu Cơ quan điều tra báo cáo trực tiếp đến Cơ quan điều tra cấp tỉnh để chủ trì khám nghiệm.

1.2.1.2. Kiểm sát về thành phần chủ thể khám nghiệm hiện trường tai nạn giao thông

Mục đích của kiểm sát khám nghiệm là để bảo đảm việc KNHT, khám nghiệm tử thi, thực nghiệm điều tra và giám định phải kịp thời, khách quan, toàn diện, đầy đủ, chính xác, đúng pháp luật; những vi phạm pháp luật trong quá trình KNHT phải được phát hiện nhằm khắc phục và xử lý nghiêm minh. Để đạt được mục tiêu đó thì việc kiểm sát thành phần chủ thể KNHT hết sức quan trọng, quyết định tính hợp pháp của các hành vi tố tụng.

Theo quy định tại Điều 26 Quy chế công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, điều tra và truy tố (Ban hành kèm theo Quyết định số 111/QĐ- VKSTC ngày 17/4/2020 của Viện trưởng VKSND tối cao): “KSV phải kiểm sát thành phần tiến hành, tham gia việc KNHT, khám nghiệm tử thi, thực nghiệm điều tra bảo đảm đúng thẩm quyền, thành phần theo quy định của BLTTHS và các văn bản pháp luật khác có liên quan”. Vì vậy, trước khi KNHT, KSV phải chủ động kiểm tra thành phần HĐKN, bảo đảm đúng quy định tại Điều 201 BLTTHS. Việc kiểm tra thành phần HĐKN căn cứ vào lịch trực khám nghiệm của ĐTV, cán bộ điều tra cũng như cán bộ KTHS, lực lượng bác sĩ pháp y đã được niêm yết và thông báo cho VKS.

Theo quy định tại Điều 201 BLTTHS: “Trước khi tiến hành KNHT, ĐTV phải thông báo cho VKS cùng cấp biết về thời gian, địa điểm tiến hành khám nghiệm để cử Kiểm sát viên kiểm sát khám nghiệm hiện trường. KSV phải có mặt để kiểm sát việc KNHT

Khi KNHT phải có người chứng kiến; có thể cho bị can, người bào chữa, bị hại, người làm chứng tham gia và mời người có chuyên môn tham dự việc khám nghiệm”.

Xem tất cả 95 trang.

Ngày đăng: 24/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí