Kịch bản tuồng Đào Tấn – Một số vấn đề nội dung và nghệ thuật - 32



TT

Thơ

Nhân vật

Bối cảnh

Điệu hát

Ngôn ngữ

Thể loại

Trang


Nỗi buồn mùa thu đẫm đầy lưng ngựa, dệt nên tấm vải lót yêng Phụng đẹp cùng lân lành bênh cạnh mưa nhân

Mây biêc và cỏ thơm quanh bên giấc mơ)







VIII

Đào Phi Phụng (hồi 4)







1.

Vạn lý trông chừng cúi lạy Trung hiếu này ai biết ai hay Những năm tiết nghĩa bia bài

Quân, thần dốc gánh hai vai nặng quằng

Đào Phi Phụng

Tại miếu Quan công

Nam

Chữ Nôm

STLB

645

2.

Hùng binh vạn đội cấp đăng trình Diện từ bắc địa vọng Đông thành Nhất triêu ngư thủy quân thần hội Thiên tải phong vân tiết nghĩa danh

(Muôn đội binh lạnh lên đường gấp

Xoay mặt từ giã đất Bắc, ngóng về thành Đông Ngày nào vua tôi cá nước họp lại

Gió mây ngàn dặm nêu cao tiết nghĩa)

Diệm Cửu Quỳ

Đi tìm Hoàng tử

Khách

Chữ Hán

Thất ngôn Đường luật

647

3.

Thiên sinh anh chúa trị Đường Ngu Phục nghĩa trừ tàn phản tặc tru Tẩy liễu càn khôn thanh uế đức

Trung hương vũ trụ mãn thiên thu

Đào Phi Phụng (mang tên

Đi thi tại triều đình Cát Thượng

Nguyên

Ngâm

Chữ Hán

Thất ngôn Cổ phong

656

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 263 trang tài liệu này.

Kịch bản tuồng Đào Tấn – Một số vấn đề nội dung và nghệ thuật - 32


239



TT

Thơ

Nhân vật

Bối cảnh

Điệu hát

Ngôn ngữ

Thể loại

Trang



Vạn

Chung)






4.

Biến, quyền một thuở, hiếu trung muôn trời Đồng thành đoái đã gần nơi….

Nhè nhẹ tới nơi quan ải Đấng anh hung dễ nại tồn vong

San không hề tử dã không

Sống không danh lợi, thác xong nợ đời Khỏi ba tấc đất thời rồi

Lão bành chẳng gặp Nhan Hồi cũng ưng

Vạn Chung

Trên đường đi đến Đồng thành

Nam

Chữ Nôm

Lục bát

663 -

664

5.

Bất trụ nỗi tình trung hiếu Gánh cang thường nặng trĩu hai vai

Cản sát tặc nhi, binh điệp điệp Triển khai thần kiếm võ oanh oanh Tu mi mạc đạo anh hùng chí

Tiếu ngã hồng nhân phụ nữ danh

(Chặn đường giết giặc, binh đông lớp lớp Múa gươm thần sáng lấp lánh

Các chàng chớ vội khoe anh hùng

Buồn cười ta lại mang danh là con gái)

Liễu Nguyệt Tâm

Gặp Đào công ngoài trận mạc

Nam Khách

Chữ Nôm Chữ Hán

Lục bát


Thất ngôn Cổ phong

676


681


240



TT

Thơ

Nhân vật

Bối cảnh

Điệu hát

Ngôn ngữ

Thể loại

Trang

IX

Sơn Hậu (hồi 3)







1.

Phản mã hồi thành tự điểu phi Cung thân triều nội đắc tương tri

Bách chiến bách thành giai bách thắng Thanh danh vạn đại hiển kỳ công

(Quay ngựa về thành nhanh như chim bay Trình bày cho đình thần biết

Đánh trăm trận, phá trăm thành đều thắng

Tiếng tăm muôn đời rạng rỡ công lao)

Tạ Ôn Đình

Trở về triều đình báo công sau khi chém Linh Tá, đuổi Kim Lân ra Sơn Hậu

Khách

Chữ Hán

Thất ngôn Đường luật

699

2.

Phải vậy làm sao biết được

Luống ngậm ngùi vận nước nỗi non

Thứ phi

Trên đường

thất lạc

Nam

Chữ Hán

Lục bát

704

3.

Bảy chục thân già chi sá Nghiến rang cười ha hả trời ơi!

Đổng mẫu

Tâm sự nhớ con bị Hổ Bôn lừa bắt ra thành Sơn Hậu

Nam

Chữ Nôm

Lục bát

718

4.

Ngọn cờ tiếng trống bơ thờ Thảo thân, ngay chúa, sững sờ hai vai

Lướt đường mai, phong ai bao sá

Sơn Hậu thành đoái đã gần đây…

Kim Lân

Trở về Sơn Hậu

Nam

Chữ Nôm

Song thất lục bát

729


241

7.2. Khảo sát hiện tượng mượn thơ văn cổ Trung Hoa trong kịch bản tuồng Đào Tấn


TT

Mượn thơ/văn

Nguồn gốc, ý nghĩa

Trang

I

Hoàng Phi Hổ quá Giới Bài quan



1.

Hồn lai phong lâm thanh phiêu phiêu hồ di thế

Giang tâm thu nguyệt bạch diếu diếu hề tương vong

- “Hồn lai phong lâm thanh” gốc từ câu thơ của Đỗ Phủ trong bài Mộng Lý Bạch.

- “Giang tâm thu nguyệt bạch” gốc câu thơ trong bài Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị “Duy

kiến giang tâm thu nguyệt bạch”


114

II

Trầm Hương các




1.


Mạch đầu dương liễu

Ý thơ trong bài Khuê oán của Vương Xương Linh;

“Nhất kiếm mạch đầu dương liễu sắc

Hối giao phu tế mịch phong hầu”


186


2.


Đạm đạm trường giang thủy Du du viễn khách tình

Nước Trường Giang lờn lợt. Tình người đi xa bùi ngùi. Gốc từ lời thơ của Vi Thừa Khánh làm khi chia tay người em ruột để khi

làm quan xa.


187


3.


Hương quan hà xứ thị?

Lấy từ tứ thơ trong bài Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu:

“Nhật mộ hương quan hà xứ thị

Yên ba giai thượng sử nhân sầu”


186


4.


Biệt hận chuyển thâm hà xứ tả Sầu tâm nhất bội trưởng ly ưu

Nỗi hận thẳm sâu khôn xiết kể Lòng sầu chồng chất những lo lâu

Gốc từ thơ Lý Đoan nhớ bạn là Tư Không –

Văn Minh



5.

Lãnh thụ trùng dà thiên lý mục Giang lưu khúc tợ cửu hồi trường

Cây núi chập chùng nhìn nẻo khuất Dòng sông uốn khúc tựa lòng đâu

Gốc từ thơ của Liễu Tôn Nguyên đứng trên

lầu Liễu Châu ngắm cảnh, làm gửi cho bạn


187


6.

Cố viên hồi thủ bất thăng bi Lữ điếm tiêu sơ, cổ giác trì

Ngoảnh về quê cũ dạ bùi ngùi Rời rạc trống canh quán tả tơi

Nỗi khổ chia lìa lòng khách bận


188

242


TT

Mượn thơ/văn

Nguồn gốc, ý nghĩa

Trang


Sầu khách chánh thâm hương tứ khổ

Xuân phong hà sự nhập la vi

Vào màn chi đó, gió xuân ơi Gốc 2 câu sau từ bài Xuân tứ của Lý Bạch :

« Xuân phong bất tương thức

Hà sự nhập la vi »


7.

Mạc sầu tiền bộ vô tri kỷ

Chẳng lo ngõ trước không có bạn bè

Lời thơ của Cao Thích

197

8.

Đương đắc quân vương đới tiếu

khan

Sẽ được nhà vua mê thích ngắm

Lời thơ của Lý Bạch

197


9.

Tây sơn lạc nguyệt lâm thiên trượng

Bắc khuyết tình vân nhiễu cấn vi

Niên hoa đáo xứ giai kham thưởng

Xuân sắc nhân gian tống bất tri

Non đoài trăng xế soi nghi trượng Cửa bắc mây lành phủ cấm vi

Chốn chốn phong quang chào đón khách Mấy ai nhân thế biết xuân này

Ở đây tác giả gộp các câu thơ Đường thành bài hát. Hai câu đầu của Sầm Sâm, hai câu

sau của Trương Trọng Tố


202,

203


10.


Tây cung dạ tĩnh bách hoa hương Thảo sắc thanh thanh liễu sắc hoàng

Đãi đáo nguyệt minh trì thượng túc

Phù dung bất cập mỹ nhân trang

Đêm tĩnh cung tây bát ngát hương Xanh xanh sắc liễu cỏ non vàng Trăng lên ao sáng ta về nghỉ

Hoa đẹp sao bằng dáng mĩ nhân

Đây là bốn câu thơ tập Đường. Câu đầu trong Tây Cung xuân oán của Vương Xương Linh; câu thứ hai trong bài Xuân tứ của Giả Chí; câu thứ ba chưa rõ của ai; Câu thứ tư trong bài Tây thu cung oán

của Vương Xương Linh


213,

214


11.

Bộ bộ vân tình vọng thúy vi Hành tàng dư thiệt tự gia tri Lộc đài hương dạ khai xuân yến Chỉ thính đăng tiền quỉ

xướng thi

Len lỏi mây mù ngắm đó đây Thực hư kín hở, đố ai hay

Tiệc xuân đài lộc vui đêm vắng Chỉ thấy bên đời quỉ hát say

Lấy ý câu thơ của Bồ Tùng Linh trong Liêu

trai chí dị:


226

243


TT

Mượn thơ/văn

Nguồn gốc, ý nghĩa

Trang



“Liệu ưng yếm tác nhân gian ngữ

Chỉ thính thu phần quỉ xướng thi”


III

Hộ sinh đàn




1.


Khéo loi thoi dương liễu mạch đầu

Mượn ý thơ trong bài Khuê oán của Vương Xương Linh đời Đường:

“Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu

Xuân nhật ngưng trang thướng thúy lâu Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc

Hối giao phu tế mịch phong hầu”


268


2.


Càng thánh thót hoàng oanh chi thượng

Mượn ý trong bài Y châu ca: “Đả khởi hoàng oanh nhi Mạc giao chi thượng đề

Đề thời kinh thiếp mộng

Bất đắc đáo Liêu tê”


268


3.


Long sơn thử dạ trung sơn nguyệt Duy hữu thâm khuê độc tự khan

Năm 756 có loạn An Lộc Sơn. Nhà thơ Đỗ Phủ đưa vợ con chạy ta Phu Châu, một mình đi tìm vua. Giữa đường ông bị giặc bắt đưa về Trường An. Đêm trông trăng vịnh thơ có câu:

“Kim dạ Phu Châu nguyệt

Khuê trung chỉ độc khan”


272


4.

Thế thượng tiêu hồn duy hữu biệt Nhân sinh hà xứ khả ưu vong

Mượn ý trong bài phú Biệt của Giang Yên (người đời Lương, thế kỷ VI): “Ám nhiên tiêu

hồn giải, duy hữu biệt dĩ nhi”


273


5.


Sơn trung thán bì mã

Gốc lời thơ của Trương Vị đời Đường:

“Bỉ mã sơn trung sầu nhật vãn”

(Buồn nỗi trời chiều ngựa mỏi trong núi)


298


6.


Hải thượng cô bi hồng

Gốc lời thơ Trương Cửu Linh đời Đường “Cô hồng hải thượng lai”

(Cánh nhạn lẻ từ trên biển bay về)


298



244


TT

Mượn thơ/văn

Nguồn gốc, ý nghĩa

Trang


7.

Lần bước qua Hồ Lại Việt Mặt bơ phờ mái nguyệt cầu sương

Mượn ý thơ Đường: “Kê thanh mao điểm nguyệt, nhân tích bảng kiều sương” (Nhà tranh trăng rọi gà eo ốc, cầu ván sương in dấu

bộ hành)


298


8.

Ngã hành sơn xuyên dị Hốt thiên tại nhất phương

Đây là hai câu thơ của Đỗ Phủ: Ta đi nước non lạ

Bỗng ở một phương trời


298

9.

Hà sự đáo thiên nhai?

Lời thơ của Lưu Võ Tích đời Đường: “Lân

quân hà sự đáo thiên nhai”

298


10.


Vi Nho phùng thế nạn

Lời thơ của Lê Luân (748-800) đời Đường:“Thùy niệm vi Nho phùng thế nạn” (Ai nghĩ rằng thân nhà Nho gặp phải thời

buổi khó khăn)


299


11.


Sầu tứ cánh mang mang

Trong lời thơ gửi bạn của Liễu Tôn Nguyên (đời Đường): “Hải sầu thiên tứ chính mang mang”(Trông trời biển mênh mông, Dạ sầu

muôn hộc não nùng lắm thay)


299


12.


Khuyễn quân tận tửu bôi Dữ quân ca nhất khúc

- Vế trước là thơ Vương Duy đời Đường

“Khuyến quân cánh tận nhất bôi tửu”.

- Vế sau là thơ của Lý Bạch đời Đường trong bài Tương tiến tửu


307


13.


Kỷ hồi Nam phố xuân ba lục Thử nhật ba sơn cựu vũ tình

- Trong bài phú biệt của Giang Yêm có câu: “Xuân thảo bích sắc, xuân thủy lục ba, Tống quân Nam Phố, thương như chi hà”.

- Trong bài tựa tập thơ Đỗ Phủ viết: “Ta ốm nằm nhà trọ ở Trường An, trời mưa dầm, bạn bè trong các kỳ mưa trước (cựu vũ) đều có

đến thăm, kì mưa này không đến”


308

14.

Tâm sự này khó hỏi trời xanh

Mượn ý trong bài Thiên vấn của

Khuất Nguyên

315



245


TT

Mượn thơ/văn

Nguồn gốc, ý nghĩa

Trang


15.


Trì trì bạch nhật vãng Níu níu bi phong sanh

Hai câu thơ này lấy chữ trong bài từ Tương phu nhân của Khuất Nguyên : “Níu níu hề thu phong” và trong bài Cảm ngộ của Trần

Tử Ngang “Trì trì bạch nhật vãn”


315


16.

Phu tế khinh bạc nhi, Tại thế bất xứng ý

Câu thứ nhất trong bài Giai nhân của Đỗ Phủ; Câu thứ hai của Lý Bạch “Nhân sinh tại

thế bất xứng ý”


315


17.


Giang sơn diêu lạc xứ, Tử biệt dĩ thôn thanh

Câu thứ nhất là lời thơ của Lưu Trường Khanh “Tịch mịch giang sơn diêu lạc xứ/Lâm quân hà sự đáo nhiên nhai”

Câu thứ hai của Đỗ Phủ trong bài mộng Lý Bạch : “Tử biệt dĩ thôn thanh, sinh biệt

trường trúc trắc”


315


18.

Biết đâu mây Sở mộng Tần là đâu?

Lấy chữ trong 2 câu thơ của Lý Đoan đời Đường: “Tần địa cố nhân thành viễn mộng/Sở

thiên lương vũ tại cô chu”


334


19.

Nước đà chảy xuống nhân gian/Hoa trôi động khẩu xê

xang một mình

Thơ vịnh Lưu Nguyễn nhập thiên thai có câu:

“Hoa lưu đỗng khẩu ưng trường tại/Thủy đáo nhân gian định bất hồi”


337

IV

Diễn võ đình




1.

Thê thê thu sắc mộ Lạc lạc lữ hoài cô

Chinh chiến kỷ nhân hồi Túy ngọa sa trường quân

mạc tiếu


Gốc từ câu thơ của Vương Hàm trong Lương châu từ


427

2.

Hương quan hà xứ thị?

Yên ba giai thượng sử nhân sầu

Gốc từ câu thơ của Thôi Hiệu trong Hoàng

Hạc lâu

427


246

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 20/09/2023