Thơ | Nhân vật | Bối cảnh | Điệu hát | Ngôn ngữ | Thể loại | Trang | |
Nỗi buồn mùa thu đẫm đầy lưng ngựa, dệt nên tấm vải lót yêng Phụng đẹp cùng lân lành bênh cạnh mưa nhân Mây biêc và cỏ thơm quanh bên giấc mơ) | |||||||
VIII | Đào Phi Phụng (hồi 4) | ||||||
1. | Vạn lý trông chừng cúi lạy Trung hiếu này ai biết ai hay Những năm tiết nghĩa bia bài Quân, thần dốc gánh hai vai nặng quằng | Đào Phi Phụng | Tại miếu Quan công | Nam | Chữ Nôm | STLB | 645 |
2. | Hùng binh vạn đội cấp đăng trình Diện từ bắc địa vọng Đông thành Nhất triêu ngư thủy quân thần hội Thiên tải phong vân tiết nghĩa danh (Muôn đội binh lạnh lên đường gấp Xoay mặt từ giã đất Bắc, ngóng về thành Đông Ngày nào vua tôi cá nước họp lại Gió mây ngàn dặm nêu cao tiết nghĩa) | Diệm Cửu Quỳ | Đi tìm Hoàng tử | Khách | Chữ Hán | Thất ngôn Đường luật | 647 |
3. | Thiên sinh anh chúa trị Đường Ngu Phục nghĩa trừ tàn phản tặc tru Tẩy liễu càn khôn thanh uế đức Trung hương vũ trụ mãn thiên thu | Đào Phi Phụng (mang tên | Đi thi tại triều đình Cát Thượng Nguyên | Ngâm | Chữ Hán | Thất ngôn Cổ phong | 656 |
Có thể bạn quan tâm!
- Kịch bản tuồng Đào Tấn – Một số vấn đề nội dung và nghệ thuật - 29
- Kịch bản tuồng Đào Tấn – Một số vấn đề nội dung và nghệ thuật - 30
- Kịch bản tuồng Đào Tấn – Một số vấn đề nội dung và nghệ thuật - 31
Xem toàn bộ 263 trang tài liệu này.
239
Thơ | Nhân vật | Bối cảnh | Điệu hát | Ngôn ngữ | Thể loại | Trang | |
Vạn Chung) | |||||||
4. | Biến, quyền một thuở, hiếu trung muôn trời Đồng thành đoái đã gần nơi…. Nhè nhẹ tới nơi quan ải Đấng anh hung dễ nại tồn vong San không hề tử dã không Sống không danh lợi, thác xong nợ đời Khỏi ba tấc đất thời rồi Lão bành chẳng gặp Nhan Hồi cũng ưng | Vạn Chung | Trên đường đi đến Đồng thành | Nam | Chữ Nôm | Lục bát | 663 - 664 |
5. | Bất trụ nỗi tình trung hiếu Gánh cang thường nặng trĩu hai vai Cản sát tặc nhi, binh điệp điệp Triển khai thần kiếm võ oanh oanh Tu mi mạc đạo anh hùng chí Tiếu ngã hồng nhân phụ nữ danh (Chặn đường giết giặc, binh đông lớp lớp Múa gươm thần sáng lấp lánh Các chàng chớ vội khoe anh hùng Buồn cười ta lại mang danh là con gái) | Liễu Nguyệt Tâm | Gặp Đào công ngoài trận mạc | Nam Khách | Chữ Nôm Chữ Hán | Lục bát Thất ngôn Cổ phong | 676 681 |
240
Thơ | Nhân vật | Bối cảnh | Điệu hát | Ngôn ngữ | Thể loại | Trang | |
IX | Sơn Hậu (hồi 3) | ||||||
1. | Phản mã hồi thành tự điểu phi Cung thân triều nội đắc tương tri Bách chiến bách thành giai bách thắng Thanh danh vạn đại hiển kỳ công (Quay ngựa về thành nhanh như chim bay Trình bày cho đình thần biết Đánh trăm trận, phá trăm thành đều thắng Tiếng tăm muôn đời rạng rỡ công lao) | Tạ Ôn Đình | Trở về triều đình báo công sau khi chém Linh Tá, đuổi Kim Lân ra Sơn Hậu | Khách | Chữ Hán | Thất ngôn Đường luật | 699 |
2. | Phải vậy làm sao biết được Luống ngậm ngùi vận nước nỗi non | Thứ phi | Trên đường thất lạc | Nam | Chữ Hán | Lục bát | 704 |
3. | Bảy chục thân già chi sá Nghiến rang cười ha hả trời ơi! | Đổng mẫu | Tâm sự nhớ con bị Hổ Bôn lừa bắt ra thành Sơn Hậu | Nam | Chữ Nôm | Lục bát | 718 |
4. | Ngọn cờ tiếng trống bơ thờ Thảo thân, ngay chúa, sững sờ hai vai Lướt đường mai, phong ai bao sá Sơn Hậu thành đoái đã gần đây… | Kim Lân | Trở về Sơn Hậu | Nam | Chữ Nôm | Song thất lục bát | 729 |
241
7.2. Khảo sát hiện tượng mượn thơ văn cổ Trung Hoa trong kịch bản tuồng Đào Tấn
Mượn thơ/văn | Nguồn gốc, ý nghĩa | Trang | |
I | Hoàng Phi Hổ quá Giới Bài quan | ||
1. | Hồn lai phong lâm thanh phiêu phiêu hồ di thế Giang tâm thu nguyệt bạch diếu diếu hề tương vong | - “Hồn lai phong lâm thanh” gốc từ câu thơ của Đỗ Phủ trong bài Mộng Lý Bạch. - “Giang tâm thu nguyệt bạch” gốc câu thơ trong bài Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị “Duy kiến giang tâm thu nguyệt bạch” | 114 |
II | Trầm Hương các | ||
1. | Mạch đầu dương liễu | Ý thơ trong bài Khuê oán của Vương Xương Linh; “Nhất kiếm mạch đầu dương liễu sắc Hối giao phu tế mịch phong hầu” | 186 |
2. | Đạm đạm trường giang thủy Du du viễn khách tình | Nước Trường Giang lờn lợt. Tình người đi xa bùi ngùi. Gốc từ lời thơ của Vi Thừa Khánh làm khi chia tay người em ruột để khi làm quan xa. | 187 |
3. | Hương quan hà xứ thị? | Lấy từ tứ thơ trong bài Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu: “Nhật mộ hương quan hà xứ thị Yên ba giai thượng sử nhân sầu” | 186 |
4. | Biệt hận chuyển thâm hà xứ tả Sầu tâm nhất bội trưởng ly ưu | Nỗi hận thẳm sâu khôn xiết kể Lòng sầu chồng chất những lo lâu Gốc từ thơ Lý Đoan nhớ bạn là Tư Không – Văn Minh | |
5. | Lãnh thụ trùng dà thiên lý mục Giang lưu khúc tợ cửu hồi trường | Cây núi chập chùng nhìn nẻo khuất Dòng sông uốn khúc tựa lòng đâu Gốc từ thơ của Liễu Tôn Nguyên đứng trên lầu Liễu Châu ngắm cảnh, làm gửi cho bạn | 187 |
6. | Cố viên hồi thủ bất thăng bi Lữ điếm tiêu sơ, cổ giác trì | Ngoảnh về quê cũ dạ bùi ngùi Rời rạc trống canh quán tả tơi Nỗi khổ chia lìa lòng khách bận | 188 |
242
Mượn thơ/văn | Nguồn gốc, ý nghĩa | Trang | |
Sầu khách chánh thâm hương tứ khổ Xuân phong hà sự nhập la vi | Vào màn chi đó, gió xuân ơi Gốc 2 câu sau từ bài Xuân tứ của Lý Bạch : « Xuân phong bất tương thức Hà sự nhập la vi » | ||
7. | Mạc sầu tiền bộ vô tri kỷ | Chẳng lo ngõ trước không có bạn bè Lời thơ của Cao Thích | 197 |
8. | Đương đắc quân vương đới tiếu khan | Sẽ được nhà vua mê thích ngắm Lời thơ của Lý Bạch | 197 |
9. | Tây sơn lạc nguyệt lâm thiên trượng Bắc khuyết tình vân nhiễu cấn vi Niên hoa đáo xứ giai kham thưởng Xuân sắc nhân gian tống bất tri | Non đoài trăng xế soi nghi trượng Cửa bắc mây lành phủ cấm vi Chốn chốn phong quang chào đón khách Mấy ai nhân thế biết xuân này Ở đây tác giả gộp các câu thơ Đường thành bài hát. Hai câu đầu của Sầm Sâm, hai câu sau của Trương Trọng Tố | 202, 203 |
10. | Tây cung dạ tĩnh bách hoa hương Thảo sắc thanh thanh liễu sắc hoàng Đãi đáo nguyệt minh trì thượng túc Phù dung bất cập mỹ nhân trang | Đêm tĩnh cung tây bát ngát hương Xanh xanh sắc liễu cỏ non vàng Trăng lên ao sáng ta về nghỉ Hoa đẹp sao bằng dáng mĩ nhân Đây là bốn câu thơ tập Đường. Câu đầu trong Tây Cung xuân oán của Vương Xương Linh; câu thứ hai trong bài Xuân tứ của Giả Chí; câu thứ ba chưa rõ của ai; Câu thứ tư trong bài Tây thu cung oán của Vương Xương Linh | 213, 214 |
11. | Bộ bộ vân tình vọng thúy vi Hành tàng dư thiệt tự gia tri Lộc đài hương dạ khai xuân yến Chỉ thính đăng tiền quỉ xướng thi | Len lỏi mây mù ngắm đó đây Thực hư kín hở, đố ai hay Tiệc xuân đài lộc vui đêm vắng Chỉ thấy bên đời quỉ hát say Lấy ý câu thơ của Bồ Tùng Linh trong Liêu trai chí dị: | 226 |
243
Mượn thơ/văn | Nguồn gốc, ý nghĩa | Trang | |
“Liệu ưng yếm tác nhân gian ngữ Chỉ thính thu phần quỉ xướng thi” | |||
III | Hộ sinh đàn | ||
1. | Khéo loi thoi dương liễu mạch đầu | Mượn ý thơ trong bài Khuê oán của Vương Xương Linh đời Đường: “Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu Xuân nhật ngưng trang thướng thúy lâu Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc Hối giao phu tế mịch phong hầu” | 268 |
2. | Càng thánh thót hoàng oanh chi thượng | Mượn ý trong bài Y châu ca: “Đả khởi hoàng oanh nhi Mạc giao chi thượng đề Đề thời kinh thiếp mộng Bất đắc đáo Liêu tê” | 268 |
3. | Long sơn thử dạ trung sơn nguyệt Duy hữu thâm khuê độc tự khan | Năm 756 có loạn An Lộc Sơn. Nhà thơ Đỗ Phủ đưa vợ con chạy ta Phu Châu, một mình đi tìm vua. Giữa đường ông bị giặc bắt đưa về Trường An. Đêm trông trăng vịnh thơ có câu: “Kim dạ Phu Châu nguyệt Khuê trung chỉ độc khan” | 272 |
4. | Thế thượng tiêu hồn duy hữu biệt Nhân sinh hà xứ khả ưu vong | Mượn ý trong bài phú Biệt của Giang Yên (người đời Lương, thế kỷ VI): “Ám nhiên tiêu hồn giải, duy hữu biệt dĩ nhi” | 273 |
5. | Sơn trung thán bì mã | Gốc lời thơ của Trương Vị đời Đường: “Bỉ mã sơn trung sầu nhật vãn” (Buồn nỗi trời chiều ngựa mỏi trong núi) | 298 |
6. | Hải thượng cô bi hồng | Gốc lời thơ Trương Cửu Linh đời Đường “Cô hồng hải thượng lai” (Cánh nhạn lẻ từ trên biển bay về) | 298 |
244
Mượn thơ/văn | Nguồn gốc, ý nghĩa | Trang | |
7. | Lần bước qua Hồ Lại Việt Mặt bơ phờ mái nguyệt cầu sương | Mượn ý thơ Đường: “Kê thanh mao điểm nguyệt, nhân tích bảng kiều sương” (Nhà tranh trăng rọi gà eo ốc, cầu ván sương in dấu bộ hành) | 298 |
8. | Ngã hành sơn xuyên dị Hốt thiên tại nhất phương | Đây là hai câu thơ của Đỗ Phủ: Ta đi nước non lạ Bỗng ở một phương trời | 298 |
9. | Hà sự đáo thiên nhai? | Lời thơ của Lưu Võ Tích đời Đường: “Lân quân hà sự đáo thiên nhai” | 298 |
10. | Vi Nho phùng thế nạn | Lời thơ của Lê Luân (748-800) đời Đường:“Thùy niệm vi Nho phùng thế nạn” (Ai nghĩ rằng thân nhà Nho gặp phải thời buổi khó khăn) | 299 |
11. | Sầu tứ cánh mang mang | Trong lời thơ gửi bạn của Liễu Tôn Nguyên (đời Đường): “Hải sầu thiên tứ chính mang mang”(Trông trời biển mênh mông, Dạ sầu muôn hộc não nùng lắm thay) | 299 |
12. | Khuyễn quân tận tửu bôi Dữ quân ca nhất khúc | - Vế trước là thơ Vương Duy đời Đường “Khuyến quân cánh tận nhất bôi tửu”. - Vế sau là thơ của Lý Bạch đời Đường trong bài Tương tiến tửu | 307 |
13. | Kỷ hồi Nam phố xuân ba lục Thử nhật ba sơn cựu vũ tình | - Trong bài phú biệt của Giang Yêm có câu: “Xuân thảo bích sắc, xuân thủy lục ba, Tống quân Nam Phố, thương như chi hà”. - Trong bài tựa tập thơ Đỗ Phủ viết: “Ta ốm nằm nhà trọ ở Trường An, trời mưa dầm, bạn bè trong các kỳ mưa trước (cựu vũ) đều có đến thăm, kì mưa này không đến” | 308 |
14. | Tâm sự này khó hỏi trời xanh | Mượn ý trong bài Thiên vấn của Khuất Nguyên | 315 |
245
Mượn thơ/văn | Nguồn gốc, ý nghĩa | Trang | |
15. | Trì trì bạch nhật vãng Níu níu bi phong sanh | Hai câu thơ này lấy chữ trong bài từ Tương phu nhân của Khuất Nguyên : “Níu níu hề thu phong” và trong bài Cảm ngộ của Trần Tử Ngang “Trì trì bạch nhật vãn” | 315 |
16. | Phu tế khinh bạc nhi, Tại thế bất xứng ý | Câu thứ nhất trong bài Giai nhân của Đỗ Phủ; Câu thứ hai của Lý Bạch “Nhân sinh tại thế bất xứng ý” | 315 |
17. | Giang sơn diêu lạc xứ, Tử biệt dĩ thôn thanh | Câu thứ nhất là lời thơ của Lưu Trường Khanh “Tịch mịch giang sơn diêu lạc xứ/Lâm quân hà sự đáo nhiên nhai” Câu thứ hai của Đỗ Phủ trong bài mộng Lý Bạch : “Tử biệt dĩ thôn thanh, sinh biệt trường trúc trắc” | 315 |
18. | Biết đâu mây Sở mộng Tần là đâu? | Lấy chữ trong 2 câu thơ của Lý Đoan đời Đường: “Tần địa cố nhân thành viễn mộng/Sở thiên lương vũ tại cô chu” | 334 |
19. | Nước đà chảy xuống nhân gian/Hoa trôi động khẩu xê xang một mình | Thơ vịnh Lưu Nguyễn nhập thiên thai có câu: “Hoa lưu đỗng khẩu ưng trường tại/Thủy đáo nhân gian định bất hồi” | 337 |
IV | Diễn võ đình | ||
1. | Thê thê thu sắc mộ Lạc lạc lữ hoài cô Chinh chiến kỷ nhân hồi Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu | Gốc từ câu thơ của Vương Hàm trong Lương châu từ | 427 |
2. | Hương quan hà xứ thị? Yên ba giai thượng sử nhân sầu | Gốc từ câu thơ của Thôi Hiệu trong Hoàng Hạc lâu | 427 |
246