giờ cũng có sự “gối sóng” chứ không bị cắt đứt hoàn toàn. Để chuẩn bị cho một thể loại mới ra đời thường diễn ra hiện tượng “rạn nứt”, “biến đổi” thể loại cũ. Điều đó có nghĩa là thể loại cũ không còn giữ được tính chất đặc trưng của nó. Như vậy, một số truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái vẫn còn vương vấn bóng dáng của truyện thần thoại, những tác phẩm này được ra đời từ rất sớm, vào thời điểm truyện thần thoại, truyền thuyết đang có sự vận động, biến đổi, báo hiệu sự “phá vỡ” thi pháp các thể loại trước để truyện cổ tích ra đời.
Thứ hai: Do quá trình lưu truyền, một số thần thoại, truyền thuyết bị “đồng hóa” một phần với cổ tích - thể loại ra đời sau nó - một cách vô thức do sự vô tình hoặc suy nghĩ đơn giản của nhân dân. Bên cạnh đó, cũng có ý kiến cho rằng các nhà nghiên cứu văn học dân gian truyện trong quá trình sưu tầm, ghi chép, dịch đã thêm bớt các chi tiết cho câu chuyện thêm phần ly kì, hấp dẫn. Chính điều đó làm nên sự cộng gộp cổ tích với thần thoại và truyền thuyết cùng các thể loại khác với nhau.
Có thể nói rằng hiện tượng giao thoa trong nghệ thuật xây dựng nhân vật cũng như cốt truyện trong truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái là một đặc điểm độc đáo do cả nguyên nhân chủ quan và khách quan đưa đến. Nguyên nhân chủ quan là do sự vận động nội tại của loại hình tự sự dân gian. Nguyên nhân khách quan là do tính truyền miệng của văn học dân gian nói chung và của tiểu loại cổ tích thần kỳ nói riêng.
3.2.1.2. Nghệ thuật sử dụng yếu tố thần kỳ
Qua việc khảo sát 24 truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái, chúng tôi thấy yếu tố thần kỳ được sử dụng ở tất cả các truyện cổ tích. Có những truyện như Nàng Nu, Chín người con trai, Hoàng tử rùa, Kề Tấu…yếu tố thần kỳ xuất hiện dày đặc song có truyện như Nàng Nao và Xênh, Sao Pàng yếu tố này chỉ xuất điểm xuyết. Việc sử dụng yếu tố thần kỳ nhiều hay ít còn tùy thuộc vào từng nội dung chủ đề. Những truyện cổ tích về
67
người đội lốt, người dũng sĩ yếu tố thần kỳ thường nhiều hơn. Ngược lại, những truyện cổ tích về người con riêng, người em yếu tố này thường ít hơn. Điều này hoàn toàn dễ hiểu bởi nhân vật thuộc nhóm cổ tích về người đội lốt, người dũng sĩ các nhân vật còn mang ảnh hưởng của kiểu nhân vật thần thoại, những nhân vật này thường gặp nhiều những khó khăn thử thách mà người bình thường khó có thể vượt qua được như đi lên trời, xuống thủy cung, đánh nhau với yêu tinh, … Còn nhân vật của nhóm cổ tích người mồ côi, người con riêng và người em gần gũi hơn với tiểu loại cổ tích sinh hoạt, chính vì thế yếu tố thần kỳ chỉ xuất hiện khi nhân vật gặp những bế tắc mà tự mình không thể giải quyết nổi. Thực tế cho thấy, trong truyện cổ tích, các giả dân gian thường sử dụng yếu tố thần kỳ để giải quyết những vấn đề của xã hội, cụ thể hơn đó là những vấn đề xung đột về lợi ích. Con người trong xã hội khi đó chỉ là những nạn nhân, những thân phận nhỏ bé của xã hội, họ chưa có đủ khả năng để giải quyết những vấn đề của đời sống cho nên giả dân gian phải mượn hình thức kì ảo để thực hiện những ước mơ của con người. Như vậy tác giả dân gian sử dụng yếu tố hoang đường để tạo nên một môi trường mà ở đó có các yếu tố hoang đường xuất hiện, sau đó đặt nhân vật vào trong môi trường ấy.
Có thể nói, yếu tố thần kỳ là phương tiện chủ đạo được các tác giả dân tộc Mông ở Yên Bái chuộng sử dụng. Yếu tố này kết hợp với việc miêu tả thực làm cho các câu chuyện trở nên mềm mại, li kì và hấp dẫn hơn chứ không làm cho tác phẩm khô cứng, đơn điệu. Bên cạnh yếu tố thần kỳ, sự miêu tả và cách tổ chức nội dung khéo léo của tác giả dân gian cũng góp phần làm cho nhân vật hiện lên sống động và ấn tượng.
3.2.2. Đặc điểm nhân vật người kể chuyện.
Có thể bạn quan tâm!
- Khảo sát truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái - 7
- Những Điểm Tương Đồng Và Khác Biệt Về Nội Dung Phản Ánh Giữa Truyện Cổ Tích Thần Kỳ Của Dân Tộc Mông Lưu Hành Ở Yên Bái Với Truyện Cổ Tích
- Đặc Điểm Xây Dựng Nhân Vật Chính.
- Một Số Biểu Tượng Trong Truyện Cổ Tích Thần Kỳ Của Dân Tộc Mông Lưu Hành Ở Yên Bái
- Khảo sát truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái - 12
- Khảo sát truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái - 13
Xem toàn bộ 107 trang tài liệu này.
Truyện cổ tích là một loại hình tự sự dân gian. Cũng như các thể loại tự sự dân gian khác, nhân vật người kể chuyện của truyện cổ tích giữ một vai trò vô cùng quan trọng. Họ chính là người dẫn dắt, tổ chức câu chuyện. Người kể chuyện có quyền quyết định xem chuyện sẽ được kể như thế nào và kể những
68
gì. Bên cạnh đó, đặc trưng của văn học dân gian là tính diễn xướng nên nhân vật người kể chuyện lại càng giữ vai trò quan trọng.
Qua việc khảo sát truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái, chúng tôi nhận thấy nhân vật người kể chuyện ở tất cả các truyện cổ tích đều dùng ngôi thứ ba số ít. Tức là họ đóng vai trò là người chứng kiến, sau đó kể lại câu chuyện theo trình tự thời gian chứ không trực tiếp tham gia vào câu chuyện. Trong quá trình kể chuyện, người kể thường giấu mình đi, không xưng tên, chỉ xuất hiện trong lời trần thuật. Nghệ thuật trần thuật của nhân vật người kể chuyện cũng rất phong phú. Ngoài nhiệm vụ kể cho câu chuyện được hay, gây ấn tượng và hấp dẫn được người nghe, người kể chuyện còn phải làm cho người nghe tin rằng câu chuyện đó là có thật. Người nghe tin rằng người kể chuyện là người đã từng chứng kiến hoặc biết tường tận, chính xác về câu chuyện mà anh ta kể. Ngoài mục đích kể chuyện để giải trí, người kể chuyện còn làm thêm nhiệm vụ truyền bá tư tưởng đạo lý, hướng người nghe tới cái chân - thiện - mĩ, làm nhiều việc có ích cho gia đình và cộng đồng xã hội. Thành công của nhân vật người kể chuyện thể hiện ở chỗ, sau khi nghe xong câu chuyện anh ta kể, người nghe tin vào tính chân thực của mỗi tác phẩm. Muốn vậy, người kể chuyện phải sắp xếp các tình tiết của câu chuyện một cách có hệ thống, hợp tình hợp lí. Nhân vật người kể chuyện được người nghe xác định chủ yếu thông qua ngôn ngữ trần thuật và vai trò trần thuật của họ trong mỗi câu chuyện.
3.2.2.1. Nhân vật người kể chuyện sử dụng ngôn ngữ trần thuật thuần túy
Nhân vật người kể chuyện sử dụng ngôn ngữ trần thuật thuần túy có nghĩa là toàn bộ nội dung của câu chuyện cổ tích được người kể chuyện dùng nguyên lời trần thuật của mình để trần thuật lại. Ngoài ngôn ngữ trần thuật của nhân vật người kể chuyện thì không có ngôn ngữ của nhân vật khác. Những truyện cổ tích của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái chủ yếu sử dụng
69
ngôn ngữ kể và tả. Sự đặc sắc của truyện cổ tích dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái là tác giả dân gian chỉ sử dụng ngôn ngữ trần thuật thuần túy mà vẫn tạo nên được những tác phẩm giàu tình tiết với nội dung hấp dẫn. Nói đến văn bản chỉ sử dụng ngôn ngữ trần thuật thì chúng ta thường hay quan niệm: cách kể chuyện này có ảnh hưởng nhất định tới sự sinh động, hấp dẫn của truyện cổ tích. Chẳng hạn như việc người kể chuyện sử dụng thuần túy ngôn ngữ trần thuật dễ khiến người nghe rơi vào thế bị động khi tiếp nhận nội dung. Nội dung tư tưởng của mỗi câu chuyện ít nhiều chịu sự áp đặt chủ quan của người kể chuyện. Người nghe không có cơ hội và cơ sở để đánh giá câu chuyện. Nói chung khi nói đến văn bản chỉ sử dụng ngôn ngữ trần thuật thuần túy là chúng ta không mấy ấn tượng nhưng đối với truyện cổ tích Mông lưu hành ở Yên Bái điều đó không còn đúng. Bởi so với những truyện không sử dụng ngôn ngữ trần thuật thuần túy thì nội dung của các truyện cổ tích này hấp dẫn và sinh động không kém. Chỉ có điều, với lối kể chuyện như thế này thì nhiệm vụ của nhân vật người kể chuyện trở nên đặc biệt quan trọng.
Vậy vì sao ngôn ngữ trần thuật của người kể chuyện lại chiếm ưu thế tuyệt đối trong truyện cổ tích dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái? Qua việc khảo sát chúng tôi nhận thấy rằng nguyên nhân chủ yếu là do văn học dân gian nói chung và truyện cổ tích nói riêng là loại hình văn học truyền miệng. Tính truyền miệng của văn học dân gian sẽ đem lại cho văn học tính đa dạng, phong phú về nội dung khi mà văn học dân gian hưng thịnh. Mặt khác, khi văn học dân gian không còn giữ được vị trí độc tôn trong đời sống tinh thần của nhân dân thì tính truyền miệng trong văn học dân gian dễ bị mai một và lãng quên nhanh nhất. Hiện tượng các truyện cổ tích chỉ còn lại ngôn ngữ trần thuật của người kể chuyện theo chúng tôi cũng không nằm ngoài quy luật này. Đặc tính truyền miệng cùng với thời gian, khi các câu chuyện cổ tích được kể lại và lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác khiến cho truyện cổ tích của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái bị mất dần các tình tiết không tiêu biểu và
70
thêm vào các tình tiết quan trọng trong cốt truyện khiến cho cốt truyện của các câu chuyện cổ tích ấy ngày càng phong phú hơn. Đến khi các câu chuyện cổ tích được sưu tầm, biên tập lại và in thành sách thì chỉ còn lại cốt truyện cơ bản được sắp xếp theo một trình tự nhất định cùng với ngôn ngữ trần thuật của người kể chuyện.
3.2.2.2. Nhân vật người kể chuyện sử dụng ngôn ngữ trần thuật xen với ngôn ngữ đối thoại của nhân vật chính
Trong truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái thì kiểu trần thuật phổ biến của người kể chuyện là lối sử dụng ngôn ngữ trần thuật xen với ngôn ngữ đối thoại của nhân vật chính. Tất cả các văn bản có sử dụng kiểu trần thuật này chúng ta đều thấy có sự sáng tạo của người kể chuyện. Người kể chuyện trong lúc này chỉ giữ vai trò là người dẫn dắt câu chuyện. Sự dẫn dắt ấy sẽ làm cho câu chuyện thêm phần phong phú, hấp dẫn và sinh động. Trong những câu chuyện cổ tích có kiểu trần thuật xen kẽ ta thấy được những tình huống gay cấn, kịch tính, hóm hỉnh, bất ngờ của câu chuyện. Nó thể hiện sự linh hoạt của người kể trong quá trình dẫn dắt câu chuyện.
Điểm nổi bật của ngôn ngữ đối thoại trong truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái là: các nhân vật thường xưng “ta” (ngôi thứ nhất) và dùng câu rút gọn trong khi giao tiếp. Chính vì thế mà ta thấy câu thoại của các nhân vật thường rất cô đúc, lời nói của nhân vật có ý nghĩa hơn rất nhiều lời miêu tả. Thông qua lượt lời của các nhân vật, ta ít thấy họ sử dụng từ ngữ bay bổng mà đi trực tiếp vào vấn đề. Đây có thể coi là đặc trưng của truyện cổ tích Mông vì lối giao tiếp của các nhân vật trong truyện gần với lối giao tiếp trong đời sồng hằng ngày trong đời sống của người Mông.
“Một hôm trời mưa tầm tã chẳng ai ra khỏi nhà. Kề Tấu đang nằm bỗng nhiên tung chăn dậy gọi mẹ:
- Bây giờ con đã gần 20, phải lấy vợ, mẹ đi hỏi cho con.
- Thế con định lấy ai?
71
- Lấy con gái thứ chín của vua.
- Nhà ta nghèo, làm sao lấy được con vua?
Kề Tấu nằn nì mãi, người mẹ mừng con biết nói, chiều con đành nhận lời đi hỏi vợ cho con.
Trên đường đi người mẹ nghĩ: gia đình mình nghèo, con mình lại xấu xí, lấy thế nào được con vua? Đi đến nửa đường bà quay về bảo con:
- Nhà ta nghèo họ không gả…”.
(Trích truyện: Kề Tấu).
Đoạn trích trên thuật lại cuộc trò chuyện giữa chàng Kề Tấu với người mẹ của mình. Điều đặc biệt, ta thấy hai mẹ con chàng Kề Tấu dùng rất nhiều những câu rút gọn. Nếu không hiểu về văn hóa giao tiếp trong đời sống hằng ngày của người Mông ta sẽ thấy nhân vật Kề Tấu thật khiếm nhã khi nói trống không với mẹ và mẹ của chàng cũng liên tục sử dụng các câu thoại theo kiểu “bằng vai phải lứa” với con. Thực ra, so với vốn từ ngữ của người Việt thì vốn từ của người Mông rất hạn chế, họ rất ít khi sử dụng từ đồng nghĩa mà sử dụng các từ đồng âm khi giao tiếp. Để hiểu được ý nghĩa của các từ ngữ đó, ta phải chú ý đến ngữ cảnh giao tiếp. Bên cạnh đó, người Mông lại sống ở các triền núi cao, mật độ dân cư thưa thớt vì vậy khi thông tin người ta phải nói ngắn gọn súc tích, miễn sao truyền tải được thông tin đến người nghe càng nhanh và chính xác càng tốt. Chính vì thế, truyện cổ tích của người Mông đã phần nào thể hiện được bản sắc văn hóa dân tộc Mông ở trong đó.
“Xí Xang khỏe lại tốt bụng, hay giúp đỡ mọi người nên trong vùng ai cũng mến. Một hôm chàng gặp một ông già tóc bạc phơ, da đỏ như trái hồng chín. Ông già khoan thai nhìn xuống tảng đá to phẳng lỳ trò chuyện với Xí Xang:
- Ông tuy già nhưng biết đao biết kiếm. Thấy cháu hiền từ lại có sức khỏe, ông muốn truyền lại cho cháu. Ý cháu thế nào?
- Cháu rất thích học. – Xí Xang đáp.
- Tại sao cháu lại thích? – Ông già hỏi.
72
- Trước đây nghe chú cháu kể chuyện, rằng có ông tiên dùng kiếm thần giết được yêu quái để cứu người bị hại. Vùng này nhiều suối khe rừng rậm, rừng già bát ngát, có nhiều hổ báo, trăn tinh bắt trâu bò lợn, hại con người. Cháu muốn học để bảo vệ thân mình và trừ thú ác giúp người lương thiện.
Ông già mỉm cười gật đầu, chòm râu bạc rung rung tỏ ý hài lòng, hẹn sẽ gặp lại. Sau đó ông già dạy đao kiếm cho Xí Xang”.
(Trích: Chuyện Xí Xang).
Trong đoạn trích trên, người trần thuật kể lại cuộc đối thoại giữa Xí Xang và ông tiên. Trong quá trình đối thoại, xuất hiện lời của hai nhân vật giao tiếp nhưng lời của nhân vật chính nhiều hơn, dài hơn lời của nhân vật phụ. Lời của nhân vật phụ là cái cớ để Xí Xang bộc lộ những suy nghĩ của mình. Điều này đã thể hiện sự linh hoạt trong nghệ thuật kể của người kể chuyện. Ngoài ra, ta còn thấy có nhân vật thứ ba trong đoạn đối thoại. Lời của nhân vật thứ ba (người chú) cũng được nhân vật trích dẫn khi giao tiếp.
Việc sử dụng đan xen ngôn ngữ trần thuật và ngôn ngữ đối thoại của người kể đã mang lại nhiều ý nghĩa tích cực:
Thứ nhất: Nội dung của truyện cổ tích thần kỳ trở nên sinh động và cụ thể hơn, đây chính là một cơ sở góp phần tăng niềm tin của người đọc đối với nội dung câu chuyện. Tăng tính xác thực cho nội dung câu chuyện. Bởi câu chuyện được người kể chuyện kể lại mà như đang diễn ra. Người đọc như phần nào được chứng kiến diễn biến của câu chuyện.
Thứ hai: Nhân vật hiện lên sống động, gần gũi hơn. Ta thấy, nhân vật được nói tức là nhân vật được sống. Qua lời nói, ta sẽ thấy nhân vật có hồn hơn, có cá tính hơn. Những cuộc đối thoại sẽ tạo nên mối quan hệ giữa các nhân vật trong truyện cổ tích thần kỳ. Từ đó người nghe sẽ được tiếp nhận nội dung của truyện cổ tích thần kỳ một cách khách quan hơn. Mối tương quan giữa các nhân vật người kể chuyện với các nhân vật khác trở nên hài hòa hơn. Người kể chuyện không nắm quyền tuyệt đối mà đã kể câu chuyện tự nó hiện lên thông qua ngôn ngữ đối thoại của các nhân vật.
73
3.3. Không gian - thời gian nghệ thuật.
Cùng với nhân vật, không gian và thời gian nghệ thuật cũng là những phương diện nghệ thuật quan trọng góp phần xây dựng nên một tác phẩm văn học. Không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật đều là hình thức tồn tại của thế giới nghệ thuật, chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, mang đầy tính biểu trưng và tính quan niệm. Không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật trong văn học dân gian có nhiều điểm khác biệt so với văn học viết. Sự khác biệt này còn diễn ra ở từng thể loại của nó. Thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, ca dao… đều có những đặc trưng riêng về không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật.
3.3.1. Không gian nghệ thuật.
Không gian nghệ thuật trong tác phẩm là sự mô hình hóa các mối liên hệ về thời gian, xã hội, đạo đức của bức tranh thế giới thể hiện quan niệm về trật tự thế giới và sự lựa chọn của nhà văn. Nghiên cứu không gian nghệ thuật của truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái, chúng tôi thấy có những đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất: Không gian hoang sơ
Đó là một không gian mà ở đó con người rất thưa thớt, cảnh vật hoang sơ, âm u với rừng rậm, hang sâu, các làng bản hoang sơ, tiêu điều. Đó là kiểu không gian mà ở đó lực lượng của thiên giới và hạ giới có thể qua lại với nhau một cách đơn giản mà không cần đến một thế lực thần tiên hay một phép màu nhiệm nào. Không gian của thiên giới và hạ giới gần như không có giới hạn hay rào chắn nào. Chính vì vậy mà khi cần, ông Trời hay người của nhà Trời có thể xuất hiện để chỉ dẫn cho con người dưới hạ giới. Hoặc nếu không thì con người dưới hạ giới có thể dắt nhau đi hỏi người nhà Trời. Có nghĩa là, khi xây dựng không gian nghệ thuật của những truyện cổ tích thần kỳ loại này, tác giả dân gian quan niệm về con người, thế giới còn rất nguyên sơ.
74