Bảng Thống Kê Nghề Nghiệp Của Người Được Khảo Sát


Theo số liệu của biểu đồ 2.3, trong 318 người tham gia khảo sát, có 188 đáp viên là nữ, chiếm 59,1% trên tổng số đáp viên, còn lại 130 đáp viên là nam, chiếm 40,9% trên tổng số đáp viên. Điều này chứng tỏ rằng du lịch ẩm thực được đối



Biểu đồ 2 3 Giới tính của đáp viên Đvt Người Nguồn Kết quả khảo sát 1

Biểu đồ 2.3. Giới tính của đáp viên (Đvt: Người)

Nguồn: Kết quả khảo sát của tác giả (Phụ lục 2.1)

tượng khách là nữ giới quan tâm nhiều hơn đối tượng khách là nam giới, chúng ta có thể dễ dàng hiểu được bởi vì phụ nữ thường là những người có sở thích đặc biệt với ẩm thực. Đặc biệt với phụ nữ Việt Nam thì các bà, các mẹ, các chị, các cô thường là những người quán xuyến chuyện nội trợ trong gia đình, từ chuyện đi chợ để chuẩn bị thực phẩm cho gia đình trong bữa ăn hàng ngày, khi nhà có đám tiệc cho đến việc chế biến nguyên vật liệu để nấu những món ăn đảm bảo vừa đầy đủ chất dinh dưỡng, vừa đẹp mắt, vừa ngon miệng nên du khách nữ luôn có sự tò mò, luôn muốn tìm kiếm, học và làm theo để có thể chế biến được những món ăn ngon, thức uống tốt lành, tìm hiểu những nét văn hóa ẩm thực đặc trưng để vừa tích lũy thêm kiến thức cho bản thân, vừa áp dụng vào thực tế cuộc sống hàng ngày.

Tác giả tiến hành tổng hợp kết quả sau khi nhận lại bảng hỏi từ đáp viên và những phiếu khảo sát trực tuyến thì từ số liệu tổng hợp ở biểu đồ 2.4 và phụ lục 2.2 nhận thấy rằng những người ở độ tuổi thanh niên và trung niên chiếm tỷ lệ khá cao với 104 đáp viên ở độ tuổi từ 25 tuổi đến 34 tuổi, chiếm 32,7% tổng số đáp viên, có 124 đáp viên ở độ tuổi từ 35 tuổi đến 44 tuổi, chiếm 39% tổng số đáp viên. Điều này cho thấy đối tượng khách của du lịch ẩm thực có độ tuổi dao động từ khoảng 45 tuổi trở xuống, những khách này hội tủ những yếu tố như có khả năng tài chính để


đi du lịch nhờ vào nguồn thu nhập từ việc làm ổn định, có khoảng thời gian rảnh vào những kỳ nghỉ như nghỉ lễ, nghỉ Tết, và họ ở khoảng độ tuổi không quá lớn nên chưa có tâm lý ngại dùng thử, thưởng thức những món ăn mới lạ của một nền văn hóa ẩm thực mới, nơi mà họ đến để thực hiện chuyến đi du lịch.


Biểu đồ 2 4 Độ tuổi của đáp viên Đvt Người Nguồn Kết quả khảo sát 2

Biểu đồ 2.4. Độ tuổi của đáp viên (Đvt: Người)

Nguồn: Kết quả khảo sát của tác giả (Phụ lục 2.2)

Theo số liệu thống kê ở bảng 2.13 thì những người tham gia vào hoạt động du lịch ẩm thực làm nghề kinh doanh, cán bộ/công nhân viên, giảng viên/giáo viên, y dược, ngân hàng là chủ yếu có tỷ lệ lần lượt là 26,1%, 15,7%, 14,5%, 13,5% và 13,2% .

Bảng 2.13. Bảng thống kê nghề nghiệp của người được khảo sát

(Đvt: Người)


Nghề nghiệp

Số lượng

Tỷ lệ %

Sinh viên

21

6,6%

Cán bộ/Công nhân viên

50

15,7%

Giảng viên/Giáo viên

46

14,5%

Y dược

43

13,5%

Lực lượng vũ trang

26

8,2%

Ngân hàng

42

13,2%

Kinh doanh

83

26,1%

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 132 trang tài liệu này.


Nghề nghiệp

Số lượng

Tỷ lệ %

Nhân viên du lịch

5

1,6%

Cán bộ hưu trí

2

0,6%

Tổng cộng

318

100%

Nguồn: Tác giả, 2017

Những người phỏng vấn được hỏi là họ biết đến nền văn hóa ẩm thực ở Bình Định nhờ vào nguồn thông tin nào dựa trên những phương án có sẵn mà tác giả đưa ra, quan sát cụ thể ở biểu đồ 2.5 dưới đây thì có hai phương án nhận được sự lựa chọn vượt trội là thông qua sự giới thiệu của người thân, bạn bè và thông qua việc khai thác thông tin trên mạng Internet với số lượt chọn lần lượt là 253 lượt trả lời chiếm tỷ lệ 79,6% và 228 lượt trả lời chiếm tỷ lệ 71,7%. Chứng tỏ việc quảng bá văn hóa ẩm thực Bình Định thông qua văn hóa truyền miệng và nền tảng công nghệ số Internet sẽ đạt được hiệu quả vượt trội, ngành du lịch Bình Định cần hết sức lưu tâm đến những điều này.

Biểu đồ 2 5 Nguồn thông tin để khách hàng biết đến ẩm thực Bình Định 3

Biểu đồ 2.5. Nguồn thông tin để khách hàng biết đến ẩm thực Bình Định

(Đvt: Lượt chọn)

Nguồn: Kết quả khảo sát của tác giả (Phụ lục 2.3)

Với những phương án còn lại mà tác giả đưa ra thì du khách biết đến ẩm thực Bình Định thông qua sự giới thiệu của các công ty lữ hành, khách sạn, nhà hàng nhận được 141 lượt chọn, chiếm tỷ lệ 44,3%; biết đến nhờ các quảng cáo trên mạng xã


hội như Facebook. Messenger nhận được 112 lượt chọn, chiếm tỷ lệ 35,2%; biết đến thông qua sự giới thiệu của các phương tiện truyền thông như: báo chí, truyền hình, xe quảng cáo lưu động… nhận được 106 lượt chọn, chiếm tỷ lệ 33,3%.


Biểu đồ 2 6 Sự sẵn lòng giới thiệu nền ẩm thực Bình Định của đáp viên 4

Biểu đồ 2.6. Sự sẵn lòng giới thiệu nền ẩm thực Bình Định của đáp viên

(Đvt: Người)

Nguồn: Kết quả khảo sát của tác giả (Phụ lục 2.4)


Đối với những người đã có dịp thưởng thức những món ẩm thực Bình Định khi được hỏi liệu họ có sẵn lòng tiếp tục giới thiệu những nét đặc sắc, hấp dẫn của nền văn hóa ẩm thực Bình Định đến cho bạn bè, người thân của họ được biết hay không thì theo số liệu của biểu đồ 2.6 có đến 285 đáp viên trả lời là sẽ sẵn sàng giới thiệu, chiếm tỷ lệ 91,1%. Chứng tỏ, văn hóa ẩm thực Bình Định với những món ăn ngon, cách chế biến độc đáo, chứa đựng nhiều giá trị văn hóa trong từng món ăn, thức uống có sức hấp dẫn mạnh mẽ đối với khách hàng, họ sẵn lòng làm người trực tiếp quảng bá để cho nền văn hóa ẩm thực Bình Định đến được với nhiều người hơn nữa.

Khi thực hiện đề tài này, tác giả đã chọn ra 11 món ẩm thực được xem là tiêu biểu cho nền văn hóa ẩm thực ở Bình Định: bún cá Quy Nhơn, bánh hỏi - cháo lòng, nem chợ Huyện, rượu Bàu Đá, bánh ít lá gai, bánh hồng, bánh tráng nước dừa, bún song thằn, tré Bình Định, bánh xèo tôm nhảy và các loại hải sản.



Biểu đồ 2 7 Số lượt thưởng thức một số món ẩm thực Bình Định Đvt 5

Biểu đồ 2.7. Số lượt thưởng thức một số món ẩm thực Bình Định

(Đvt: Lượt chọn)

Nguồn: Kết quả khảo sát của tác giả (Phụ lục 2.5)

Tác giả thực hiện khảo sát bằng bảng hỏi và phỏng vấn trực tuyến thì theo số liệu của biểu đồ 2.7 ghi nhận năm món ẩm thực nhận được nhiều lượt chọn nhất xếp theo thứ tự từ cao xuống thấp: thứ nhất là bánh ít lá gai, nhận được 248 lượt chọn, chiếm tỷ lệ 78%; thứ hai là nem chợ Huyện, nhận được 241 lượt chọn, chiếm tỷ lệ 75,8%; thứ ba là rượu Bàu Đá, nhận được 240 lượt chọn, chiếm tỷ lệ 75,5%; thứ tư là bún chả cá Quy Nhơn, nhận được 207 lượt chọn, chiếm tỷ lệ 65,1% và xếp thứ năm là các loại hải sản, nhận được 204 lượt chọn, chiếm tỷ lệ 64,2%.

Khi tác giả hỏi các đáp viên đã thưởng thức những món ẩm thực Bình Định ở không gian nào thì theo số liệu thể hiện ở biểu đồ 2.8 và phụ lục 2.6; nơi được nhiều người lựa chọn nhất là ở các quán ăn bình dân với 287 lượt chọn, chiếm tỷ lệ 90,3%, thứ hai là ở các nhà hàng ngoài đường phố với 232 lượt chọn, chiếm tỷ lệ 73%, thứ ba là ở hàng quán vỉa hè với 194 lượt chọn, chiếm tỷ lệ 61%.


Biểu đồ 2 8 Không gian thưởng thức ẩm thực Bình Định Đvt Lượt chọn 6

Biểu đồ 2.8. Không gian thưởng thức ẩm thực Bình Định (Đvt: Lượt chọn)

Nguồn: Kết quả khảo sát của tác giả (Phụ lục 2.6)

Chúng ta nhận thấy rằng ở trong ba vị trí cao nhất ở mục hỏi không gian để mọi người thưởng thức ẩm thực thì đã có hai vị trí thuộc về những quán ăn bình dân và hàng quán vỉa hè, dường như chính ở những hàng quán đơn giản, mộc mạc chứ không cần phải là những nhà hàng cao sang, lộng lẫy mới được khách hàng lựa chọn để dừng chân thưởng thức những hương vị hấp dẫn, tìm hiểu những nét văn hóa độc đáo của nền văn hóa ẩm thực Bình Định. Bởi vì, ở những nơi này họ có thể trực tiếp tiếp xúc, trò chuyện với người dân bản địa để hiểu hơn về đời sống, văn hóa ăn uống của từng tầng lớp dân cư, của từng dân tộc khác nhau đang sinh sống trên miền đất võ.

Khi tác giả đưa ra những câu hỏi liên quan đến ý kiến đánh giá chủ quan của đáp viên khi thưởng thức những món ẩm thực Bình Định về các yếu tố như: giá cả, hình thức trình bày, hương vị của ẩm thực Bình Định, sự đảm bảo VSATTP của ẩm thực Bình Định, tính phong phú của ẩm thực Bình Định thì đã ghi nhận những câu trả lời tương ứng với từng yếu tố cụ thể như sau: Với số liệu thể hiện ở biểu đồ 2.9 và phụ lục 2.7, khi được hỏi về yếu tố giá cả thì đa số các đáp viên đều cho rằng ẩm thực Bình Định có giá cả vừa phải khi so sánh với chất lượng và số lượng món ăn mà khách hàng được thưởng thức với 67,6 % tương ứng 215 đáp viên lựa chọn


trong đó có 175 khách nội địa và 40 khách quốc tế, có 11 % tương ứng 35 người đánh giá giá cả là đắt trong đó có 25 khách nội địa và 10 khách quốc tế, có 13,8 % tương ứng số người chọn cho giá cả rẻ là 44 người trong đó có 20 khách nội địa và 24 khách quốc tế, có 7,6 % tương ứng với 24 người cho rằng giá cả của ẩm thực Bình Định là rất rẻ trong đó có 18 khách nội địa và 6 khách quốc tế. Bên cạnh đó, khi đề cập đến các món ăn được chế biến từ hải sản và so sánh với các địa phương khác đã phát triển mạnh về du lịch như: Vũng Tàu, Bình Thuận, Khánh Hòa thì mọi người đều đồng ý rằng ở Bình Định mọi thứ đều rẻ hơn, có nhiều món còn được đánh giá là có mùi vị tươi ngon vượt trội nhờ vào việc các nhà hàng, quán ăn đưa vào chế biến ngay khi các loại hải sản được đánh bắt chuyển từ tàu đi biển cập bờ trong ngày chứ không để trải qua quá trình bảo quản cấp đông quá lâu làm mất vị tươi ngon của chúng.

Biểu đồ 2 9 Ý kiến của du khách về giá cả của ẩm thực Bình Định Đvt 7

Biểu đồ 2.9. Ý kiến của du khách về giá cả của ẩm thực Bình Định (Đvt: %)

Nguồn: Kết quả khảo sát của tác giả (Phụ lục 2.7)

Tính phong phú của ẩm thực Bình Định cũng được nhiều đáp viên đánh giá tốt, điều này thể hiện ở biểu đồ 2.10 và phụ lục 2.9 với 159 đáp viên cho rằng ẩm thực Bình Định rất phong phú trong đó có 121 khách nội địa và 38 khách quốc tế, 103 đáp viên cho rằng ẩm thực Bình Định phong phú trong đó có 77 khách nội địa và 26 khách quốc tế, có 56 đáp viên cho rằng tính phong phú của ẩm thực Bình Định chỉ ở mức bình thường trong đó có 40 khách nội địa và 16 khách quốc tế.


Biểu đồ 2 10 Ý kiến của du khách về tính phong phú của ẩm thực Bình Định 8


Biểu đồ 2.10. Ý kiến của du khách về tính phong phú của ẩm thực Bình Định

(Đvt: Người)

Nguồn: Kết quả khảo sát của tác giả (Phụ lục 2.9)

Một vấn đề cực kỳ quan trọng khi đề cập đến việc khai thác du lịch văn hoá ẩm thực để phục vụ việc phát triển du lịch ở tỉnh Bình Định là VSATTP, số liệu ở biểu đồ 2.11 và phụ lục 2.10 khi được hỏi về VSATTP của ẩm thực Bình Định thì chỉ có 60 đáp viên cho rằng VSATTP của ẩm thực Bình Định là tốt trong đó có 50 khách nội địa và 10 khách quốc tế, 139 đáp viên cho rằng VSATTP của ẩm thực Bình Định ở mức trung bình trong đó có 121 khách nội địa và 18 khách quốc tế, có 101 đáp viên cho rằng VSATTP của ẩm thực Bình Định là chưa tốt trong đó có 60 khách nội địa và 41 khách quốc tế, có đến 18 đáp viên cho rằng vấn đề đảm bảo VSATTP là kém trong đó có 7 khách nội địa và 11 khách quốc tế. Đây thật sự là một thực trạng đáng lo ngại vì nếu một người khách hàng không hài lòng về sản phẩm hoặc dịch vụ, họ sẽ nói với 09 đến 15 người khác về trải nghiệm của họ; khoảng 13% trong tổng số khách hàng không hài lòng về sản phẩm hoặc dịch vụ có thể nói với hơn 20 người khác về trải nghiệm của họ. Ngược lại, nếu một khách hàng hài lòng về sản phẩm hoặc dịch vụ, họ sẽ chỉ nói với khoảng 04 người đến 06 người về trải nghiệm của họ (trích dẫn bởi Colin Shaw, 2013). Ta dễ dàng nhận

Xem tất cả 132 trang.

Ngày đăng: 12/09/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí