Khả năng tiếp cận, sử dụng các dịch vụ tài chính của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh - 10


hoặc công ty cổ phần Bảo hiểm Viễn Đông đã sử dụng hệ thống mạng lưới chi nhánh của một trong những cổ đông quan trọng là Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam để phát triển hoạt động kinh doanh của mình…

Tóm lại, trong hơn một thập kỷ qua, năng lực cung cấp sản phẩm dịch vụ bảo hiểm đã được nâng lên rò rệt dựa trên các yếu tố: phát triển số lượng nhà cung cấp dịch vụ, đa dạng hoá sản phẩm dịch vụ và nâng cao chất lượng dịch vụ cung cấp cho khách hàng, đa dạng hoá các kênh phân phối…

Tuy nhiên, vẫn còn những hạn chế đối với các yếu tố về phía tổ chức cung cấp dịch vụ dẫn đến làm giảm khả năng cung cấp dịch vụ bảo hiểm cho khách hàng:

- Hệ thống chi nhánh, văn phòng khu vực… của các tổ chức cung cấp dịch vụ vẫn chủ yếu đặt tại các trung tâm kinh tế lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng, Nha Trang… Ngoài Bảo Việt có chi nhánh tại 64 tỉnh, thành trên toàn quốc và Phòng khai thác bảo hiểm tại nhiều Quận, Huyện, các tổ chức cung cấp dịch vụ bảo hiểm còn lại có số chi nhánh hạn chế. Chẳng hạn đối với Công ty cổ phần bảo hiểm Nhà Rồng, có tới 7 Bảo Long khu vực từ 1 đến 7 nằm ở thành phố Hồ Chí Minh, còn lại là các chi nhánh đặt tại Hà Nội, Đà Nẵng, Phú Yên, Khánh Hoà, Vũng Tàu và Cần Thơ… Đây là một thực tế khó tránh khỏi khi đời sống của dân cư khu vực này cao hơn các khu vực khác, đồng thời cũng là các trung tâm tập trung các tổ chức kinh tế lớn của cả nước, thuận lợi cho việc khai thác và phát triển. Tuy vậy điều này hạn chế khả năng cung ứng dịch vụ đến các địa phương chưa có sự hiện diện của tổ chức cung cấp dịch vụ.

- Năng lực tài chính của các tổ chức cung cấp dịch vụ vẫn còn yếu. So sánh giữa quy định về mức vốn pháp định (Bảng 2.5) và vốn điều lệ của các


tổ chức cung cấp dịch vụ cho thấy, hầu hết các tổ chức cung cấp dịch vụ bảo hiểm đều có vốn điều lệ bằng với vốn pháp định. Trong số 41 tổ chức cung cấp dịch vụ tính đến cuối năm 2007, có tới 9 tổ chức cung cấp dịch vụ có vốn điều lệ đúng bằng vốn pháp định. Chúng ta biết rằng vốn pháp định chỉ là số vốn cần thiết, tối thiểu để doanh nghiệp tiến hành hoạt động kinh doanh.

Bảng 2.5 QUY ĐỊNH VỀ VỐN PHÁP ĐỊNH


Loại hình công ty

Mức vốn pháp định

Công ty bảo hiểm nhân thọ

600 tỷ VND

Công ty bảo hiểm phi nhân thọ

300 tỷ VND

Công ty dầu khí


(Vệ tinh bảo hiểm liên kết đầu tư)


200 tỷ VND

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 144 trang tài liệu này.

Khả năng tiếp cận, sử dụng các dịch vụ tài chính của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh - 10

Nguồn: Thông tư hướng dẫn thi hành NĐ 45, NĐ 46


- Chất lượng, chủng loại và giá cả sản phẩm chưa đáp ứng được nhu cầu phong phú và ngày càng cao của khách hàng, nhất là trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Sau hơn 10 năm, mặc dù tốc độ đa dạng hoá sản phẩm dịch vụ bảo hiểm diễn ra tương đối nhanh, song vẫn không theo kịp tốc độ phát triển của nền kinh tế, nhu cầu của khách hàng, dẫn đến tình trạng còn thị trường bị bỏ trống. Ngoài nguyên nhân từ phía khách hàng (sẽ được phân tích ở phần sau), còn có nguyên nhân từ phía các tổ chức cung cấp dịch vụ bảo hiểm chưa thiết kế được sản phẩm dịch vụ bảo hiểm thích hợp để cung cấp cho khách hàng. Đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, tính đến thời điểm hiện nay, Bảo Việt chủ yếu thực hiện chính sách của Nhà nước, năm 2001 Công ty trách nhiệm hữu hạn bảo hiểm tổng hợp Groupama Việt Nam đã đầu tư hoạt động kinh doanh chính vào lĩnh vực nông nghiệp. Tuy nhiên, hoạt động kinh doanh sản phẩm dịch vụ bảo hiểm vào lĩnh vực này của Groupama hiện vẫn


đang trong tình trạng thua lỗ và doanh nghiệp phải mở rộng sang các lĩnh vực khác để hỗ trợ cho hoạt động kinh doanh này. Từ trước đến nay, các doanh nghiệp bảo hiểm của Việt Nam dành được các hợp đồng chủ yếu dựa trên các mối quan hệ cá nhân với những người có chức quyền khi ký kết hợp đồng và hạ phí không trên cơ sở định phí. Đối với những dịch vụ có độ rủi ro lớn và phức tạp là các nhà máy thuỷ điện, các thiết bị khai thác dầu khí, hàng không, thiết bị điện tử hoặc bảo hiểm rủi ro trách nhiệm sản phẩm, trách nhiệm nghề nghiệp… các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ thiếu chuyên gia có kinh nghiệm. Do đó, cả chất lượng, chủng loại và giá cả sản phẩm bảo hiểm đều chưa đáp ứng nhu cầu của khách hàng.

Đối với yếu tố giá cả của sản phẩm dịch vụ bảo hiểm, mỗi sản phẩm được bán ra trên thị trường đều có giá nhất định. Giá cả của hàng hoá hữu hình được dựa trên giá thành sản phẩm cộng các chi phí dịch vụ và lợi nhuận của nhà sản xuất, nhà phân phối, tức là có cơ sở định lượng để tính toán. Riêng với sản phẩm bảo hiểm là sản phẩm vô hình quy trình tính giá sản phẩm là ngược, tức là nhà cung cấp để tính được giá của sản phẩm phải dựa trên các sự kiện bảo hiểm tương tự, hệ thống thống kê số liệu và dựa trên xác suất theo nguyên tắc số lớn và các rủi ro tương đồng, các phương pháp dự tính khả năng sự kiện bảo hiểm xảy ra để đưa ra mức phí. Vấn đề định phí bảo hiểm đã được nhận thức là phức tạp và khó khăn. Mặc dù giá cả sản phẩm dịch vụ bảo hiểm đã được hạ xuống do cạnh tranh, song vẫn còn cao so với khả năng của khách hàng, nhất là trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp. Một phần xuất phát từ nguyên nhân do năng lực tài chính của khách hàng thấp (sẽ trình bày trong phần sau). Một thực trạng nữa đáng quan tâm là do cạnh tranh, mức phí được hạ xuống không đảm bảo khả năng tài chính, nhưng các nhà cung cấp không quan tâm lắm đến vấn đề này, miễn làm sao lấy được dịch vụ bảo hiểm.


- Nguồn nhân lực của các tổ chức cung cấp dịch vụ bảo hiểm vẫn còn hạn chế. Mặc dù công tác đào tạo nguồn nhân lực đã được chú trọng hơn, song vẫn chưa theo kịp với sự phát triển của thị trường. Đặc biệt, sau thời gian đầu phát triển theo bề rộng, khi chuyển sang phát triển theo chiều sâu, nguồn nhân lực có chuyên môn trong vấn đề định phí, phát triển sản phẩm mới… chưa đáp ứng yêu cầu. Hiện tại, chỉ có Bảo Việt đã thành lập được Trung tâm đào tạo của riêng mình, song mới đáp ứng phần nào yêu cầu của nhà cung cấp dịch vụ bảo hiểm hàng đầu trên cả nước. Trong khi đó, các trường đại học, trung học… chỉ cung cấp kiến thức chung về bảo hiểm, các chuyên môn sâu đòi hỏi phải có chương trình đào tạo riêng. Quá trình chuyển giao công nghệ và nguồn nhân lực từ nước ngoài và thông qua hoạt động đào tạo của các tổ chức cung cấp dịch vụ có vốn đầu tư nước ngoài rất chậm do tính chất cạnh tranh giữa các tổ chức cung cấp dịch vụ bảo hiểm. Thậm chí, các tổ chức cung cấp dịch vụ bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài còn sử dụng lợi ích vật chất làm “chảy máu chất xám” từ các tổ chức cung cấp dịch vụ bảo hiểm trong nước.

- Tình trạng “độc quyền vô hình” vẫn còn lớn. Sau khi “xóa bỏ” được tình trạng độc quyền của Bảo Việt, thị trường dịch vụ bảo hiểm Việt Nam lại xuất hiện tình trạng “độc quyền vô hình” ngành. Đó là việc xuất hiện các công ty bảo hiểm ngành như Công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex thuộc ngành xăng dầu, Công ty bảo hiểm dầu khí thuộc ngành dầu khí, công ty cổ phần bảo hiểm Bưu điện thuộc ngành Bưu chính viễn thông… Một quy định bất thành văn đối với việc tham gia vào thị trường bảo hiểm của các doanh nghiệp thành viên của các ngành nói trên là “buộc” phải mua các sản phẩm dịch vụ bảo hiểm của tổ chức cung cấp dịch vụ bảo hiểm của ngành. Bởi vì Tổng Công ty Xăng dầu, Tổng Công ty Dầu Khí và Tổng Công ty Bưu chính viễn thông là cổ đông chính của các doanh nghiệp bảo hiểm này. Tình trạng


này dẫn đến việc các tổ chức cung cấp dịch vụ bảo hiểm khác sẽ gặp khó khăn trong việc tiếp cận và cung cấp dịch vụ cho các khách hàng trong các ngành này.

2.1.3. Dịch vụ chứng khoán


Thị trường dịch vụ chứng khoán gắn liền với TTCK. Do TTCK Việt Nam mới phát triển nên thị trường dịch vụ chứng khoán cũng rất non trẻ. Tuy nhiên, mặc dù Trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh chính thức đi vào hoạt động từ ngày 28/7/2000, song thị trường dịch vụ chứng khoán ở Việt Nam đã hình thành và phát triển từ trước đó.

Do TTCK chính thức mới ra đời năm 2000, nên thị trường dịch vụ chứng khoán còn khá mới mẻ và kém phát triển. Về cơ bản các dịch vụ chứng khoán do các công ty chứng khoán cung cấp. Bên cạnh đó các ngân hàng thương mại, các tổ chức tài chính phi ngân hàng cũng tham gia vào vịêc cung cấp dịch vụ chứng khoán như đại lý thanh toán, lưu ký… Sau 5 năm TTCK chính thức đi vào hoạt động, thị trường dịch vụ chứng khoán đã có bước phát triển nhất định, thể hiện trên một số khía cạnh:

- Tổ chức cung cấp dịch vụ: Tính đến hết tháng 4/2008, ngoài 98 công ty chứng khoán được cấp giấy phép hoạt động, còn có các tổ chức khác cùng tham gia cung cấp dịch vụ như công ty quản lý quỹ cung cấp dịch vụ đầu tư chứng khoán qua quỹ đầu tư chứng khoán, NHTM cung cấp dịch vụ thanh toán…

- Các dịch vụ cung ứng cho khách hàng: Về cơ bản các công ty chứng khoán đã cung cấp dịch vụ môi giới chứng khoán, dịch vụ tư vấn đầu tư chứng khoán, dịch vụ bảo lãnh và đại lý phát hành chứng khoán, dịch vụ quản lý danh mục đầu tư chứng khoán và dịch vụ tự doanh. Tuy nhiên, dịch vụ chứng khoán chủ yếu trong giai đoạn hiện nay là dịch vụ môi giới chứng


khoán, tư vấn phát hành chứng khoán đối với các DNNN thực hiện cổ phần hoá. Các dịch vụ khác như bảo lãnh, đại lý phát hành, quản lý danh mục đầu tư, quản lý quỹ đầu tư… chưa được triển khai mạnh mẽ. Hoạt động tư vấn đầu tư của các công ty chứng khoán mới chỉ mang tính chất hướng dẫn người đầu tư thực hiện đúng các thủ tục mua bán chứng khoán, chưa thực sự tư vấn cho họ biết cách lựa chọn lĩnh vực đầu tư cũng như thời điểm mua bán chứng khoán sao cho có hiệu quả nhất…

- Về khách hàng: Tính đến cuối năm 2007, đã có khoảng 330.000 tài khoản đầu tư của khách hàng mở tại các công ty chứng khoán.

- Về hàng hoá trên TTCK: Đối với thị trường dịch vụ chứng khoán , hàng hoá trên TTCK rất quan trọng, tác đông rất lớn đến khả năng cung ứng dịch vụ chứng khoán cho khách hàng. Chẳng hạn khi hàng hoá chứng khoán cung ứng cho TTCK sơ cấp tăng lên sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc cung ứng dịch vụ bảo lãnh phát hàng tăng lên; hoặc hàng hoá trên TTCK thứ cấp chính thức tăng lên cũng góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động cung ứng dịch vụ môi giới chứng khoán, dịch vụ quản lý danh mục đầu tư…

Ở đây xin được phân tích kỹ hơn về TTCK sơ cấp bởi thị trường này là nơi mà các doanh nghiệp nói chung, các DNNQD nói riêng được hưởng lợi từ các dịch vụ tài chính. Dịch vụ trên TTCK sơ cấp bao gồm: Dịch vụ bảo lãnh phát hành và dịch vụ đại lý phân phối chứng khoán.

Bảo lãnh phát hành là quá trình một công ty chứng khoán giúp tổ chức phát hành thực hiện các thủ tục trước và sau khi chào bán chứng khoán như định giá chứng khoán, chuẩn bị hồ sơ xin phép phát hành chứng khoán, phân phối chứng khoán và bình ổn giá chứng khoán trong giai đoạn đầu. Thực chất đây là một loại hình dịch vụ nhằm hỗ trợ cho công ty phát hành hoặc chủ sở hữu chứng khoán trong việc phân phối chứng khoán đến nhà đầu tư thông qua


việc hoàn thành các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán, thoả thuận mua toàn bộ hay một phần chứng khoán của tổ chức phát hành để bán lại hoặc mua số chứng khoán còn lại chưa được phân phối hết.

Trên thực tế, việc phát hành cổ phiếu của doanh nghiệp ra công chúng thường được tiến hành thông qua hoạt động bảo lãnh của các định chế tài chính như: ngân hàng, công ty tài chính, công ty chứng khoán… Cách thức phát hành như vậy sẽ làm tăng chi phí phát hành, song nó đảm bảo cho việc bán cổ phiếu của doanh nghiệp được thực hiện một cách chuyên nghiệp, đúng luật và doanh nghiệp sẽ nhận được sự tài trợ khi doanh nghiệp chưa được công chúng quan tâm.

Đối với dịch vụ đại lý phân phối chứng khoán, khi các định chế tài chính nhận làm đại lý phát hành cổ phiếu cho các tổ chức phát hành, họ sẽ bán cổ phiếu phát hành theo giá định sẵn và hưởng hoa hồng phát hành theo doanh số bán. Các định chế tài chính này hứa sẽ cố gắng hết sức mình để làm sao bán được nhiều cổ phiếu cho tổ chức phát hành. Thông thường, các định chế tài chính thực hiện dịch vụ đại lý phát hành cổ phiếu trong trường hợp tổ chức phát hành chưa có uy tín cao, hoặc họ chưa biết rò, hoặc chưa nắm chắc quá trình kinh doanh cũng như triển vọng của tổ chức phát hành, do đó họ không dám mạo hiểm, mà chỉ thực hiện chức năng trung gian mà thôi. Điều này dẫn đến mọi thiệt hại do bán không được hoặc bán thấp hơn giá danh nghĩa thì tổ chức phát hành sẽ hoàn toàn gánh chịu.

Ở Việt Nam hiện nay, hai dịch vụ trên chưa thực sự được triển khai mạnh và cũng chưa phục vụ hữu ích cho các doanh nghiệp vì các công ty bảo lãnh phát hành và làm đại lý phân phối chứng khoán chưa tuân thủ các điều kiện phát hành ngặt nghèo và quy chế báo cáo thông tin nghiêm khắc. Mục đích mà các công ty bảo lãnh phát hành và đại lý phân phối chứng khoán


hướng tới một phần là vì lợi ích của các doanh nghiệp, nhưng phần lớn là vì khoản thu từ phí bảo lãnh phát hành và làm đại lý phân phối. Do đó, các doanh nghiệp, đặc biệt là các DNNQD còn e ngại, do dự khi tiếp cận, sử dụng dịch vụ trên TTCK.

Tính đến 30/6/2005, tổng giá trị chứng khoán niêm yết trên Trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh đạt gần 31.000 tỷ đồng. Trong đó bao gồm trên 1.700 tỷ đồng cổ phiếu của 28 công ty cổ phần và chứng quỹ đầu tư VFI, trên 29.000 tỷ đồng trái phiếu Chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương và trái phiếu Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam.

Trong bối cảnh quy mô TTCK chính thức còn rất nhỏ bé, thể hiện ở chỉ số tổng giá trị thị trường so GDP mới đạt 0,83% vào cuối năm 2004 mặc dù đã tăng tới 60,78% trong năm 2004.

Tuy nhiên, kết thúc năm 2007, số lượng các doanh nghiệp được chấp thuận đăng ký niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh (Hostc) và trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội (Hastc) là 250 công ty, đạt mức tăng trưởng gần 30% so với năm 2006. Quy mô vốn hoá đạt 492.000 tỷ đồng, chiếm khoảng 40% GDP, tăng gần gấp 2lần so với năm 2006.

Với mức giao dịch bình quân thị trường đạt gần 1.500 tỷ đồng cho phiên giao dịch tính cho cả hai sàn Hostc và Hastc, gần đạt 100.000.000USD, TTCK Việt Nam nằm trong mối quan tâm của các nhà đầu tư, tổ chức, cá nhân nước ngoài. Tính đến hết năm 2007, đã có 516 tổ chức và 8.167 cá nhân đăng ký tài khoản giao dịch, tăng 300% so với năm 2006. Nguồn vốn các nhà đầu tư đem đến cho TTCK Việt Nam đạt 5,7 tỷ USD, tăng 330% so với năm 2006 là khoảng 1,3 tỷ USD và hướng tới đạt 7,3 tỷ USD cho năm 2008 (Phụ lục 3)

Xem tất cả 144 trang.

Ngày đăng: 06/08/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí