Sự Hình Thành Và Phát Triển Của Pháp Luật Về Hợp Đồng Bảo Hiểm Taì Sản.

Bất cứ thời điểm nào, sự an toàn của tài sản cũng bị đe doạ bởi các yếu tố ruỉ ro tiềm ẩn bởi các hiện tượng thiên tai bất khả kháng như bão tố, lũ lụt, động

đất, núi lửa..cũng có thể là do rủi ro do tai nạn hay lỗi bất cẩn của con người như các hiện tượng cháy, nổ, đâm va, chìm đắm...gây ra những thiệt hại rất nghiêm trọng. Vụ cháy Trung tâm thương mại Sài gòn (ITC) xảy ra ngày 29/10/2002 gây thiệt hại thảm khốc về người và hàng chục tỷ đồng về tài sản, hay vụ cháy gần đây nhất, ngày 02/11/2002 tại Công ty sản xuất mũ bảo hiểm xe máy Amoro ở Gia lâm, Hà nội với thiệt hại về tài sản trên 5 tỷ đồng là minh chứng rõ ràng nhất về sự bất cẩn của con người dẫn đến những hậu quả thiệt hại khôn lường cho

đời sống, kinh tế xã hội. Vì vậy, Bảo hiểm tài sản có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế, thông qua việc trả tiền bồi thường, cung cấp sự trợ giúp hữu hiệu về tài chính cho Bên mua bảo hiểm trước những rủi ro tổn thất, nhanh chóng khắc phục hậu quả, ổn định đời sống, sản xuất kinh doanh. Với sự phát triển, mở rộng

đa dạng các loại hình bảo hiểm tài sản hiện nay như; bảo hiểm hàng hoá vận chuyển đường bộ, đường biển, đường sông, đường sắt và đường hàng không; bảo hiểm thân tàu biển; bảo hiểm vật chất xe cơ giới; bảo hiểm thân máy bay; bảo hiểm cháy nổ; bảo hiểm nhà tư nhân; bảo hiểm xây dựng và lắp đặt; bảo hiểm dầu khí; bảo hiểm nông nghiệp (cây trồng và vật nuôi); bảo hiểm tín dụng và rủi ro tài chính; bảo hiểm gián đoạn kinh doanh... Bảo hiểm tài sản ngày càng thể hiện vai trò quan trọng và không thể thiếu trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội, sản xuất, kinh doanh.

1.3. Quyền bảo hiểm tài sản.

Quyền bảo hiểm tài sản của một chủ thể phát sinh từ sự tồn tại một quyền lợi có thể được bảo hiểm của chủ thể đó có trong đối tượng tài sản bảo hiểm.

Quyền lợi có thể được bảo hiểm là một trong những nguyên tắc chung cơ bản và quan trọng nhất của bảo hiểm thương mại, đó là những quyền lợi mà một chủ thể có trong đối tượng bảo hiểm, vì bảo vệ cho quyền lợi này mà Hợp đồng bảo hiểm được thiết lập. Quyền lợi có thể được bảo hiểm của một chủ thể có thể

được hiểu khái quát là quyền lợi hợp pháp được bảo hiểm, phát sinh từ mối quan hệ tài chính (financial relationship) được công nhận bởi luật pháp giữa chủ thể đó và đối tượng bảo hiểm [22, tr135]. Từ đó cho thấy một số yếu tố cơ bản của quyền lợi có thể được bảo hiểm, đó là:

- Phải tồn tại một tài sản, quyền, lợi ích, cuộc sống hay trách nhiệm có thể

được bảo hiểm; và những tài sản, quyền, lợi ích, cuộc sống hay trách nhiệm đó phải là đối tượng của một bảo hiểm;

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 116 trang tài liệu này.

- Người được bảo hiểm phải có mối quan hệ với đối tượng bảo hiểm đó, và người được bảo hiểm sẽ có lợi từ sự an toàn của đối tượng bảo hiểm, và phải gánh chịu thiệt hại nếu đối tượng bảo hiểm đó bị tổn thất;

- Mối quan hệ giữa người được bảo hiểm và đối tượng bảo hiểm phải là hợp pháp, được pháp luật công nhận.

Hợp đồng bảo hiểm tài sản - 3

Để hiểu rõ hơn vấn đề này, có thể tham chiếu qui định về quyền lợi có thể

được bảo hiểm trong Luật bảo hiểm hàng hải Anh 1906 1. Theo qui định của luật này, người có quyền lợi có thể được bảo hiểm là người liên quan đến một hành trình đường biển. 2. Một người được coi là liên quan đến một hành trình

đường biển khi người ấy có liên quan hợp pháp và công bằng đối với hành trình hoặc bất cứ tài sản có thể bảo hiểm nào chịu rủi ro trong hành trình đó, mà theo

đó người ấy có thể hưởng lợi nếu tài sản có thể bảo hiểm ấy được an toàn hay về

được đến bến đúng hạn, hoặc có thể bị thiệt hại nếu tài sản đó bị tổn thất hay tổn hại, hay bị cầm giữ hoặc có thể chịu trách nhiệm về những tổn thất đó(Điều 5).

Bất kỳ một tài sản nào, gắn liền với sự tồn tại của nó, là các quan hệ về quyền lợi tài chính hợp pháp mà một chủ thể có trong tài sản đó. Điều này thể hiện quyền lợi của chủ thể đó sẽ được đảm bảo nếu tài sản đó an toàn không bị tổn thất, và ngược lại, chủ thể đó sẽ phải chịu thiệt hại nếu tài sản đó bị rủi ro tổn thất. Mục đích của việc thiết lập một Hợp đồng bảo hiểm tài sản là nhằm bảo

đảm và bảo vệ cho những quyền lợi tài chính của một chủ thể có trong đối tượng tài sản bảo hiểm, và vì mục đích này mà Hợp đồng bảo hiểm đó tồn tại. Do đó, bất kỳ ai có một quyền lợi tài chính, hay nói cách khác, có một quyền lợi có thể

được bảo hiểm trong đối tượng là tài sản thì đều có thể yêu cầu giao kết Hợp

đồng bảo hiểm tài sản để đảm bảo cho những quyền lợi đó. Quyền lợi có thể

được bảo hiểm của một chủ thể là quyền lợi đang tồn tại, có thực; cũng có thể còn phôi thai (đang bắt đầu) hình thành trên cơ sở sự tồn tại của quyền lợi có thực; hoặc bất kỳ sự kỳ vọng về quyền lợi nào mà nếu tài sản đó còn an toàn, còn tồn tại (không bị tổn thất) thì sẽ phát sinh quyền lợi đó.

Theo qui định của Luật KDBH, quyền lợi có thể được bảo hiểm trong Hợp

đồng bảo hiểm tài sản thể hiện và phát sinh từ mối quan hệ về quyền sở hữu, chiếm hữu, sử dụng và quyền tài sản mà Bên mua bảo hiểm có trong đối tượng tài sản bảo hiểm (Khoản 9 Điều 3). Quyền lợi có thể được bảo hiểm trong bảo hiểm tài sản không những gắn liền và phát sinh từ mối quan hệ tài chính hợp pháp từ tài sản đó, mà còn bị giới hạn bởi giá trị thực tế của tài sản, cũng như bị giới hạn bởi lợi ích tài chính mà người đó có thể được hưởng nếu tài sản đó không bị tổn thất. Đây là nguyên tắc quan trọng và xuyên suốt áp dụng trong Hợp đồng bảo hiểm tài sản, một người không thể được hưởng lợi hơn những thiệt hại mà anh ta có thể phải chịu khi đối tượng tài sản bảo hiểm bị tổn thất.

Theo qui định của pháp luật, giao kết Hợp đồng bảo hiểm sẽ không có hiệu lực nếu bên mua bảo hiểm không có quyền lợi có thể được bảo hiểm (Điều

22.1 Luật KDBH). Sự tồn tại quyền lợi có thể đựơc bảo hiểm trong đối tượng bảo hiểm của bên mua bảo hiểm để đảm bảo hợp đồng không bị vô hiệu là nguyên tắc cơ bản cuả giao kết Hợp đồng bảo hiểm. Quyền lợi có thể được bảo hiểm trong Hợp đồng bảo hiểm tài sản trước tiên phát sinh từ mối quan hệ sở hữu đối tượng bảo hiểm. Ngoài ra, còn có các mối quan hệ hợp pháp và quan hệ tài chính khác - với tích chất là các quan hệ phái sinh từ quyền sở hữu tài sản. Vì thế, Hợp

đồng bảo hiểm tài sản có thể do người chủ sở hữu trực tiếp ký kết, và đồng thời là người được bảo hiểm nếu chủ sở hữu thực hiện đầy đủ quyền năng của chủ sở hữu trong việc chiếm hữu, khai thác sử dụng tài sản đó. Tuy nhiên, trong trường hợp chủ sở hữu giao tài sản cho người khác chiếm hữu, sử dụng, thì những người này - vì trách nhiệm và quyền lợi của họ trong việc chiếm hữu, sử dụng tài sản

đó, cũng phát sinh một quyền lợi có thể được bảo hiểm đối với tài sản đó, và vì vậy sẽ là người trực tiếp đứng ra ký kết và là người được bảo hiểm trong quan hệ Hợp đồng bảo hiểm tài sản. Tóm lại, trong quá trình tài sản được dịch chuyển trong giao lưu tế dân sự thì bất kỳ một chủ thể nào có mối quan hệ về lợi ích tài chính liên quan trực tiếp đến tài sản đó thì đều phát sinh một quyền lợi có thể

được bảo hiểm, và có quyền ký kết Hợp đồng bảo hiểm tài sản để bảo đảm cho quyền lợi hợp pháp đó, họ cũng chính là người được bảo hiểm. Xin dẫn chiếu một số quan hệ tiêu biểu:

- Quan hệ đồng sở hữu: thể hiện một người có một phần quyền lợi trong khối tài sản, tuy nhiên họ được cói là có quyền bảo hiểm toàn bộ giá trị tài sản đó (chứ không chỉ là giời hạn bởi quyền lợi thực tế có của anh ta). Nhưng, điều này không có nghĩa là anh ta sẽ được hưởng tất cả quyền lợi bảo hiểm khi tài sản đó bị tổn thất, mà chỉ được hưởng quyền lợi tương ứng với phần quyền lợi có trong tài sản bảo hiểm. Trong trường hợp này pháp luật xem xét anh ta như là người

được uỷ thác (Trustee) trông nom tài sản cho những người đồng sở hữu khác.

- Quan hệ cầm cố: Khi một tài sản được đưa ra cầm cố bởi một bên, thì về nguyên tắc bên nhận cầm cố có quyền lợi có thể được bảo hiểm đối với tài sản đó phát sinh từ nghĩa vụ phải bảo quản, giữ gìn tài sản đó như là tài sản của chính mình và phải bồi thường thiệt hại cho bên đem cầm cố nếu làm mất mát hoặc hư hỏng tài sản đó (Điều 334 Khoản 1 và Khoản 5 BLDS).

- Quan hệ uỷ thác trông giữ tài sản thì bên nhận uỷ thác có quyền lợi có thể được bảo hiểm đối với tài sản được uỷ thác phát sinh từ việc gánh vác trách nhiệm trông nom, quản lý tài sản đó; Trong quan hệ cầm, giữ hợp pháp tài sản để thực hiện một công việc nào đó, chẳng hạn chủ hiệu giặt là, dịch vụ sửa chữa, chủ hiệu gia công vàng bạc đều có quyền lợi có thể được bảo hiểm đối với tài sản

đó phát sinh từ trách nhiệm phải chăm sóc bảo quản một cách hợp lý đối với tài sản như thể họ chính là người sở hữu tài sản đó.

Như vậy, quyền tham gia bảo hiểm tài sản của một chủ thể phát sinh trên cơ sở tồn tại một quyền lợi có thể được bảo hiểm của một chủ thể đó đối với tài sản, không chỉ phát sinh trực tiếp từ quyền năng của chủ sở hữu trong việc chiếm hữu, sử dụng và các quyền tài sản của chủ sở hữu đối với tài sản, mà còn phát sinh từ các mối quan hệ tài chính hợp pháp khác trong quá trình tài sản được sử dụng trong giao lưu kinh tế dân sự, trong quan hệ thực hiện nghĩa vụ dân sự và quan hệ hợp đồng dân sự.

Trong bảo hiểm tài sản, do đặc thù của đối tượng tài sản bảo hiểm và các mối quan hệ pháp lý và lợi ích tài chính có liên quan đến tài sản, mà quyền tham gia bảo hiểm tài sản của một chủ thể được xác định và phát sinh trên những căn cứ khác biệt so với quyền tham gia bảo hiểm con người và quyền tham gia bảo hiểm trách nhiệm dân sự.

- Trong bảo hiểm trách nhiệm dân sự thì một người có quyền lợi có thể

được bảo hiểm trong phạm vi trách nhiệm pháp lý tiểm ẩn mà anh ta có thể phải chịu đối với người khác theo qui định của pháp luật, và vì vậy phát sinh quyền tham gia bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ thể đó.

- Trong bảo hiểm con người, quyền lợi có thể được bảo hiểm của bên mua bảo hiểm phát sinh chủ yếu từ quyền, nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng đối với

đối tượng bảo hiểm là con người. Về nguyên tắc, bên mua bảo hiểm có quyền mua bảo hiểm cho chính bản thân mình. Bên mua bảo hiểm chỉ có quyền yêu cầu bảo hiểm cho một người khác, nếu có một quyền lợi có thể được bảo hiểm liên quan đến đối tượng người được bảo hiểm, phát sinh từ mối quan hệ huyết thống, nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng của bên mua bảo hiểm đối với người được bảo hiểm. Vì vậy, theo qui đinh của Luật KDBH thì : Bên mua bảo hiểm chỉ có thể mua bảo hiểm cho: a/ bản thân bên mua bảo hiểm; b/ Vợ, chồng, con,cha mẹ của bên mua bảo hiểm ; c/ anh chị em ruột, người có quan hệ nuôi dưỡng và cấp dưỡng; d/ người khác, nếu bên mua bảo hiểm có thể có quyền lợi có thể được bảo hiểm(Khoản 2 Điều 31).

Xác định quyền bảo hiểm tài sản của một chủ thể phát sinh trên cơ sở phải tồn tại một quyền lợi có thể được bảo hiểm có trong đối tượng tài sản bảo hiểm là nguyên tắc đặc thù của Hợp đồng bảo hiểm tài sản. Đóng vai trò quan trọng và tiên quyết xuyên xuốt quá trình giao kết hợp đồng, thực hiện hợp đồng và bồi thường bảo hiểm: không chỉ là điều kiện để đảm bảo cho Hợp đồng bảo hiểm tài sản có hiệu lực, mà nó còn cho phép xem xét các trường hợp làm vô hiệu hợp

đồng, các trường hợp chấm dứt hợp đồng, cũng như các điều kiện để Hợp đồng bảo hiểm tài sản có thể được chuyển nhượng...

1.4. Sự hình thành và phát triển của pháp luật về Hợp đồng bảo hiểm taì sản.

Việc mua bán sản phẩm bảo hiểm không mang tính "ngang giá". Người mua thì phải trả tiền ngay (phí bảo hiểm) nhưng lại không được nhận vào thời

điểm đó sự phục vụ (cam kết) của doanh nghiệp bảo hiểm và hoàn toàn không biết chất lượng sản phẩm (dịch vụ) mà mình đã bỏ tiền ra mua. Chất lượng sản phẩm chỉ được thể hiện khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra, tức là hoặc khi đến hạn

hợp đồng (bảo hiểm nhân thọ), hoặc khi người được bảo hiểm bị thiệt hại về thân

thể hoặc tài sản hoặc phát sinh trách nhiệm dân sự phải bồi thường theo quy định của luật pháp và trong khuôn khổ những cam kết của người bảo hiểm. Tính đặc thù còn thể hiện ở chỗ ngay cả người bảo hiểm và người được bảo hiểm cũng đều không biết khi nào thì sự kiện bảo hiểm xảy ra (trừ bảo hiểm nhân thọ khi đến hạn hợp đồng) bởi trong bảo hiểm phi nhân thọ người bảo hiểm chỉ nhận những rủi ro có thể xảy ra chứ không chắc chắn sẽ xảy ra. Và đây cũng chính là yếu tố không ngang giá xảy ra trong quá trình mua bán (thảo luận và ký kết hợp đồng). Người bảo hiểm thì trả phí mà không thể có kết luận ngay là đắt hay rẻ và người bảo hiểm thì càng không thể biết rằng mình đã ôm một rủi ro lớn đến mức nào so với số tiền mà mình đã nhận

Chính vì đặc thù đó mà ở hầu hết các nước trên thế giới đều đặc biệt coi trọng tầm quan trọng của Hợp đồng bảo hiểm. Do các yếu tố lịch sử và truyền thống pháp lý ở các nước khác nhau, mà có các qui định khác nhau về Hợp đồng bảo hiểm.

Luật Bảo hiểm có lịch sử phát triển rất sớm ở châu Âu. Tại Bồ Đào Nha,

đạo luật đầu tiên về bảo hiểm được ban hành từ thế kỷ 14 và bắt nguồn từ việc thể chế hoá các tập quán đương thời về bảo hiểm hàng hải. Đến nay, sau nhiều lần thay đổi, hệ thống pháp luật về bảo hiểm đã hình thành vững chắc và không ngừng được hoàn thiện. Hoạt động kinh doanh bảo hiểm của các nước chịu sự

điều chỉnh của hai luật chính là Luật về doanh nghiệp bảo hiểm (hay luật về quản lý giám sát bảo hiểm) và Luật về Hợp đồng bảo hiểm. Một số loại bảo hiểm đặc thù như bảo hiểm hàng hải, bảo hiểm hàng không, bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới hay Tái bảo hiểm, thường được điều chỉnh bằng những văn bản riêng như Luật Bảo hiểm Hàng hải năm 1906 (Anh); Luật Hàng hải (ý); Đạo luật Bảo hiểm Trách nhiệm Dân sự chủ xe cơ giới đối với người thứ ba (Đức).. v.v. Ngoài ra, các nước như Bồ Đào Nha, Hy Lạp là một trong số ít các nước có các quy định pháp luật về bảo hiểm được tập hợp trong Bộ luật Thương mại. Trong khi đó, một số nước khác như ý, lại sử dụng BLDS để điều chỉnh nội dung, hình thức, việc giao kết, thực hiện Hợp đồng bảo hiểm.

Nhìn chung, các nước theo hệ thống Luật thành văn ( như Cộng hoà liên bang Đức, Pháp, úc, Philipine, Trung Quốc..) mặc dù đã có Luật về hợp đồng, nhưng các nước này đều đưa vào Bộ luật bảo hiểm một chương qui định riêng về

Hợp đồng bảo hiểm, hoặc ban hành một Luật riêng về Hợp đồng bảo hiểm nhằm

điều chỉnh các mối quan hệ giữa người bảo hiểm và người được bảo hiểm.

ë Việt nam, một Luật riêng mang tính chuyên ngành điều chỉnh về hoạt

động kinh doanh bảo hiểm và Hợp đồng bảo hiểm mới chỉ có từ khi Quốc hội Việt nam thông qua Luật KDBH ngày 09/12/2000, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/4/2001.

Thực tế, vào giai đoạn đầu sơ khai của hoạt động kinh doanh bảo hiểm ở Việt nam, chỉ có duy nhất một công ty bảo hiểm (Tổng công ty bảo hiểm Việt nam - Bảo Việt, được thành lập bởi Quyết định số 179/CP ngày 17/12/1964 của Thủ tướng Chính Phủ), hoạt động theo cơ chế Nhà nước độc quyền, thì các qui

định pháp luật điều chỉnh về Hợp đồng bảo hiểm còn thiếu và có hiệu lực pháp lý thấp. Trước những năm 90, bên cạnh việc thiếu vắng khung pháp luật chung về hợp đồng trong hệ thống pháp luật Việt nam, những qui định liên quan đến Hợp

đồng bảo hiểm nói chung và Hợp đồng bảo hiểm tài sản chủ yếu được điều chỉnh bởi các Quyết định hay Thông tư hướng dẫn của Bộ Tài chính cho phép Bảo Việt triển khai một số nghiệp vụ bảo hiểm và ban hành theo đó một số Qui tắc Điều khoản bảo hiểm được phép áp dụng; hoặc cho phép Bảo Việt ban hành một số Qui tắc, Điều khoản bảo hiểm. Hầu hết các Qui tắc, Điều khoản bảo hiểm đều là sự sao chép các Điều khoản bảo hiểm của nước ngoài được áp dụng vào Việt nam, với tính chất là một Hợp đồng bảo hiểm theo mẫu, được qui định sẵn trong Qui tắc bảo hiểm, do một bên doanh nghiệp bảo hiểm đưa ra. Vì vậy, không tránh khỏi việc áp đặt ý chí chủ quan của một bên chủ thể doanh nghiệp bảo hiểm, các quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia trong quan hệ Hợp đồng bảo hiểm chưa thực sự được bình đẳng.

Từ những đòi hỏi thực tiễn của cơ chế đổi mới kinh tế xã hội Việt nam, các văn bản pháp luật điều chỉnh về các lĩnh vực về hợp đồng đã lần luợt ban hành: Pháp lệnh HĐKT ngày 25/9/1989; Pháp lệnh HĐDS ngày 29/4/1991). Tuy nhiên, nội dung các văn bản này chưa đủ để điều chỉnh những vấn đề đặc thù của Hợp đồng bảo hiểm. Bộ luật hàng hải được Quốc hội thông qua ngày 30/6/1990, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/1991 đã dành Chương XVI , gồm 41 Điều qui

định về Hợp đồng bảo hiểm hàng hải. Có thể coi BLHH là văn bản luật đầu tiên, có giá trị pháp lý cao điều chỉnh về Hợp đồng bảo hiểm, tuy nhiên, các nội dung

qui định này cũng chỉ điều chỉnh giới hạn các vấn đề liên quan đến Hợp đồng bảo hiểm trong lĩnh vực bảo hiểm hàng hải. Nghị định 100 CP ngày 18/12/1993

điều chỉnh về hoạt động kinh doanh bảo hiểm được coi là cơ sở pháp lý đầu tiên, quan trọng hình thành và phát triển thị trường bảo hiểm sôi động hiện nay. Nhưng, chỉ với 38 Điều, Nghị định 100 CP đã không qui định và bao quát được những yếu tố cơ bản của thị trường bảo hiểm. Các qui định này chỉ tập trung điều chỉnh hoạt động của các doanh nghiệp bảo hiểm, mà lại không có các qui định cụ thể ghi nhận và bảo vệ các quyền và lợi ích của những người tham gia bảo hiểm. Bộ luật dân sự ra đời, có hiệu lực từ ngày 01/7/1996, mặc dù dành 14 Điều (từ điều 571 đến điều 584) trong Mục 11 Chương II, Phần thứ ba qui định về Hợp

đồng bảo hiểm, với các qui định mang tính nguyên tắc và quá sơ lược, chưa bao hàm hết các khía cạnh của Hợp đồng bảo hiểm. Bộ Tài chính cũng đã ban hành Qui chế tạm thời về các qui định chung của Hợp đồng bảo hiểm (theo Quyết định số 581a TC/TCNH ngày 1/7/1996 ) áp dụng cho tất cả các Hợp đồng bảo hiểm không phải là Hợp đồng bảo hiểm hàng hải, trong đó điều chỉnh một số nội dung và nguyên tắc quan trọng liên quan đến từng loại Hợp đồng bảo hiểm, tuy nhiên, chưa bao hàm hết các khía cạnh của Hợp đồng bảo hiểm, và có giá trị pháp lý thấp.

Như vậy, trong một thời gian dài hình thành và phát triển của thị trường kinh doanh bảo hiểm Việt nam, pháp luật điều chỉnh về Hợp đồng bảo hiểm còn tản mạn và không đồng bộ. Nguồn chính của pháp luật về Hợp đồng bảo hiểm là các Qui tắc bảo hiểm, điều khoản bảo hiểm do các Doanh nghiệp bảo hiểm áp dụng hoặc ban hành. Nền tảng cho sự phát triển vững chắc và lành mạnh của một thị trường bảo hiểm là việc đảm bảo và bảo vệ các quyền lợi chính đáng của một bên chủ thể tham gia thị trường - đó là những người tham bảo hiểm, chưa

được pháp luật quan tâm và điều chỉnh đúng mức. Việc ban hành một văn bản Luật chuyên ngành, có hiệu lực pháp luật mang tính thống nhất, điều chỉnh và bảo vệ quyền lợi của một bên những người tham gia bảo hiểm là đòi hỏi tất yếu của quá trình phát triển.

Luật KDBH [2001] đã được ban hành ngày 22/12/200, với tính chất là văn bản luật chuyên ngành đầu tiên qui định về hoạt động kinh doanh bảo hiểm và ghi nhận các vấn đề đặc thù của Hợp đồng bảo hiểm. Có thể nói, lần đầu tiên -

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 13/05/2024