đã thoả thuận trong hợp đồng thuê. Trong thời hạn cho thuê, các bên không được đơn phương huỷ bỏ hợp đồng.”
Như vậy đặc điểm của cho thuê tài chính là một loại tín dụng trung và dài hạn tài trợ gần hoặc 100% vốn- tín dụng được cấp dưới dạng tài sản. Bên thuê trả nợ thuê bằng hoặc gần bằng toàn bộ giá trị tài sản cộng lãi suất trong khoảng thời gian bằng hoặc gần bằng thời gian hữu dụng của tài sản đó và chịu mọi chi phí vận hành, bảo dưỡng và bảo hành tài sản trong suốt thời hạn thuê. Bên cho thuê được hưởng một khoản lợi nhuận sau khi trừ đi chi phí và lãi suất.
7.2. Cho thuê hoạt động (cho thuê vận hành- operating lease).
Là những khoản thuê mà người cho thuê vẫn nắm giữ quyền sở hữu tài sản khi hết thời hạn thuê chứ không dự kiến chuyển giao cho người thuê như trong cho thuê tài chính (do đó rủi ro lạc hậu của tài sản thuộc về người cho thuê). Theo hợp đồng cho thuê vận hành, người cho thuê phải chịu mọi chi phí vận hành của tài sản như chi phí bảo trì, bảo dưỡng, nộp tiền bảo hiểm, chịu mọi lợi ích từ tài sản như sự gia tăng giá trị, sự giảm thuế hay chính sách ưu đãi của Nhà nước. Thời hạn cho thuê hoạt động thường ngắn hơn nhiều so với thời gian hữu dụng của tài sản đó đồng thời tiền thuê trong thuê hoạt động thường nhỏ hơn nhiều so với toàn bộ giá trị tài sản thuê.
Nghiệp vụ tín dụng thuê mua có ý nghĩa lớn trong thực tiễn:
- Doanh nghiệp có thể dùng thu nhập khai thác từ chính tài sản đi thuê để trả tiền thuê cho tài sản. Phương thức này ưu việt hơn đi vay nợ vì tránh được biến động của lãi suất và sự thay đổi chính sách của các ngân hàng.
- Đáp ứng nhu cầu vốn cho doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ đang gặp khó khăn vì vốn đầu tư quá lớn so với khả năng tài chính của họ. Hơn nữa khi doanh nghiệp không hội đủ các điều kiện vay vốn trung và dài hạn của ngân hàng, thuê mua là một giải pháp ứng cứu. Như vậy, tín dụng thuê mua là một giải pháp thay thế hữu hiệu cho việc vay vốn.
- Tiền thuê là những khoản nhất định quy định trước trong hợp đồng, doanh nghiệp có thể tính vào giá thành sản phẩm mà không lo biến động.
- Tín dụng thuê mua giúp doanh nghiệp lựa chọn những máy móc thiết bị thích hợp với khả năng và nhu cầu đồng thời có điều kiện đổi mới thiết bị cho dù chi phí thuê mua có thể cao hơn lãi vay ngân hàng nhưng doanh nghiệp lại không cần phải có bảo đảm vì bản thân tài sản cho thuê đã là một bảo đảm.
Có thể bạn quan tâm!
- Hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu của ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam - 2
- Tài Trợ Trên Cơ Sở Phương Thức Thanh Toán Nhờ Thu Kèm Chứng Từ.
- Bao Thanh Toán Tương Đối (Factoring) Và Bao Thanh Toán Tuyệt Đối (Forfaiting).
- Kết Quả Hoạt Động Kinh Doanh Của Bidv Năm 2006.
- Thực Trạng Hoạt Động Tín Dụng Tài Trợ Xuất Nhập Khẩu Tại Ngân Hàng
- Một Số Chỉ Tiêu Hoạt Động Chính Của Công Ty Blc1
Xem toàn bộ 119 trang tài liệu này.
khẩu.
IV. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập
Hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu là một lĩnh vực kinh doanh quốc
tế của ngân hàng và có vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, có ảnh hưởng sâu sắc tới hoạt động xuất nhập khẩu của đất nước. Nó phải chịu tác động của nhiều yếu tố và các yếu tố này vừa có thể có tác dụng thúc đẩy mở rộng phát triển hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu, hoặc cũng có thể hạn chế hoạt động này. Một số yếu tố chính tác động tới hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu của ngân hàng thương mại là:
1. Năng lực cho vay của ngân hàng.
Khả năng cung ứng tín dụng của ngân hàng tất yếu phải dựa vào chính sức mạnh của ngân hàng đó, sức mạnh của ngân hàng được đánh giá trên nhiều khía cạnh:
- Đầu tiên phải nói tới vốn tự có của ngân hàng: khả năng đáp ứng vốn của ngân hàng đối với doanh nghiệp chịu tác động trực tiếp bởi vốn tự có. Vốn tự có quá nhỏ sẽ hạn chế khả năng huy động vốn để mở rộng cho vay và giới hạn tín dụng đối với khách hàng.
- Về năng lực điều hành kinh doanh trong kinh tế thị trường của ngân hàng: thể hiện ở việc đa dạng và đổi mới các nghiệp vụ kinh doanh nhất là nghiệp vụ tín dụng.
- Trình độ nghiệp vụ của cán bộ quản lý và nhân viên ngân hàng: đây là một nhân tố quan trọng, sự thành công của hoạt động tín dụng phụ thuộc rất lớn vào trình độ năng lực và trách nhiệm của đội ngũ cán bộ tín dụng.
Ngoài ra, các khía cạnh khác của ngân hàng như: thông tin tín dụng, công nghệ ngân hàng, hệ thống tổ chức, công tác thanh tra kiểm soát nội bộ... cũng ảnh hưởng đến năng lực cho vay của ngân hàng.
2. Chính sách xuất nhập khẩu của Nhà nước.
Nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động xuất nhập khẩu, mỗi quốc gia đều đưa ra chính sách ngoại thương phù hợp với tình hình kinh tế đất nước và thế giới. Trong mỗi thời kỳ phát triển, nước ta cũng có những chiến lược và biện pháp phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động này. Điều đó có ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu của các NHTM.
Chính sách xuất nhập khẩu của Việt Nam trong thời kỳ này bao gồm: chính sách mặt hàng, chính sách thị trường, chính sách thuế, chính sách tỷ giá, chính sách hỗ trợ đầu tư, hỗ trợ giá, chính sách tự do hoá và bảo hộ mậu dịch. Các chính sách này có tác dụng thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu ngày càng phát triển kéo theo hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu được mở rộng và mang lại hiệu quả cao cho cả ngân hàng và các doanh nghiệp xuất nhập khẩu.
3. Môi trường kinh tế, chính trị, xã hội trong và ngoài nước.
Đây là một yếu tố quan trọng tác động mạnh đến mọi hoạt động kinh tế nói chung và hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng.
- Nhân tố kinh tế: điều kiện kinh tế của khu vực mà ngân hàng phục vụ ảnh hưởng lớn tới quy mô và hiệu quả tín dụng nói chung và tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu nói riêng. Một nền kinh tế ổn định sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho tín dụng được mở rộng và đạt hiệu quả cao, còn nền kinh tế không ổn định thì các yếu tố lạm phát, khủng hoảng sẽ làm cho khả năng tín dụng và khả năng trả nợ vay biến động lớn. Hơn nữa, tín dụng ngân hàng còn chịu tác động rất lớn của các chính sách vĩ mô của Nhà nước- chính sách tài chính tiền tệ. Chính sách tiền tệ mở rộng hay thu hẹp sẽ tác động đến lượng cung tiền trong nền kinh tế, tác động đến dự trữ bắt buộc và giới hạn cho vay của các ngân hàng thương mại.
- Nhân tố xã hội: quan hệ tín dụng là sự kết hợp của ba nhân tố là khách hàng, ngân hàng và sự tín nhiệm. Trong đó sự tín nhiệm là cầu nối mối quan hệ
giữa ngân hàng và khách hàng. Đặc biệt trong hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu còn liên quan tới các mối quan hệ xã hội mang tính quốc tế rất cao, do vậy tín nhiệm là điều kiện để nâng cao khả năng mở rộng tín dụng và mang lại hiệu quả tín dụng như mong muốn của ngân hàng và khách hàng.
- Nhân tố chính trị, pháp lý: khi Nhà nước tạo lập được một môi trường pháp lý hoàn chỉnh, có hiệu lực cao, phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế thì đảm bảo cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh tiến hành thuận lợi, là cơ sở pháp lý để giải quyết các vấn đề khiếu nại khi có tranh chấp xảy ra, nhất là trong quan hệ kinh tế quốc tế. Vì vậy, vấn đề pháp lý có vị trí đặc biệt quan trọng đối với hoạt động ngân hàng.
4. Năng lực của doanh nghiệp xuất nhập khẩu.
Ngân hàng chỉ có thể thực hiện được khoản tín dụng của mình khi phát sinh nhu cầu tài trợ của doanh nghiệp, tín dụng là cầu nối giữa hoạt động kinh doanh của ngân hàng với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó, mỗi biểu hiện tốt hay xấu của doanh nghiệp sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động tín dụng thông qua cơ chế tác động của mối quan hệ tín dụng.
Năng lực của doanh nghiệp xuất nhập khẩu có thể được đánh giá trên các phương diện: khả năng tài chính, năng lực cạnh tranh, trình độ quản lý, chiến lược kinh doanh... của doanh nghiệp.
CHƯƠNG II:
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TÀI TRỢ XUẤT NHẬP KHẨU CỦA NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM.
I. Một số nét khái quát về Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
1. Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
1.1. Sự ra đời và quá trình phát triển.
Ngày 26 tháng 04 năm 1957, chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã ký Nghị định 177/TTg khai sinh ra Ngân hàng Kiến thiết Việt Nam- tiền thân
của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam hiện nay- với nhiệm vụ cung ứng và quản lý nguồn vốn của Nhà nước cho công cuộc xây dựng và tái thiết đất nước. Quá trình phát triển của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam với những tên gọi khác nhau gắn với những nhiệm vụ khác nhau của từng thời kỳ: Ngân hàng Kiến thiết Việt Nam, Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng Việt Nam, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
Giai đoạn 1957- 1980, Ngân hàng Kiến thiết Việt Nam được thành lập trực thuộc Bộ Tài chính với quy mô ban đầu gồm 11 chi nhánh, 200 nhân viên với nhiệm vụ chủ yếu là cấp phát, quản lý vốn kiến thiết cơ bản bằng nguồn vốn ngân sách cho tất cả các lĩnh vực kinh tế, xã hội.
Giai đoạn 1981- 1989, Ngân hàng Kiến thiết Việt Nam được đổi tên thành Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng Việt Nam trực thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam với nhiệm vụ chủ yếu là cấp phát, cho vay và quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản thuộc kế hoạch Nhà nước tất cẩ các lĩnh vực của nền kinh tế.
Giai đoạn 1990- 1994, Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng Việt Nam được đổi tên thành Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam( BIDV) với nhiệm vụ được thay đổi về cơ bản: ngoài việc tiếp tục nhận vốn ngân sách để cho vay các dự án thuộc chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước thì BIDV đã thực hiện huy động các nguồn vốn trung và dài hạn để cho vay đầu tư phát triển; kinh doanh tiền tệ tín dụng và dịch vụ ngân hàng chủ yếu trong lĩnh vực xây lắp phục vụ đầu tư phát triển.
Giai đoạn 1995- 2000, BIDV được phép kinh doanh đa năng tổng hợp như một ngân hàng thương mại phục vụ chủ yếu cho đầu tư phát triển của đất nước. Đây là thời kì BIDV đã khẳng định được vị trí, vai trò là ngân hàng thương mại hàng đầu tại Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Giai đoạn từ năm 2001 đến nay, BIDV đã triển khai đồng bộ Đề án cơ cấu lại được chính phủ phê duyệt và Dự án hiện đại hoá ngân hàng và hệ thống thanh toán do Ngân hàng thế giới tài trợ tiến tới phát triển thành một ngân hàng đa năng hàng đầu của Việt Nam, hoạt động ngang tầm với các ngân hàng khu vực vào năm 2010.
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam- tên giao dịch quốc tế " Bank for Investment and Development of Viet Nam"- là một ngân hàng thương mại (NHTM) hoạt động với tư cách một pháp nhân độc lập: có vốn, trụ sở độc lập với Ngân hàng Nhà nước( NHNN), hạch toán kinh tế độc lập, được quyền tự chủ về tài chính và chủ động về kinh doanh,có hội sở chính tại Tháp A- Vincom City Towers, 191 Bà Triệu- Quận Hai Bà Trưng Hà Nội, có con dấu riêng, có bảng tổng kết tài sản và trực tiếp làm nghĩa vụ với ngân sách Nhà nước( NSNN), đồng thới chịu sự quản lý vĩ mô của NHNN và Chính phủ.
Từ những ngày đầu thành lập, với 11 chi nhánh và 200 cán bộ, đến nay BIDV đã hoàn thành mô hình Tổng Công ty với Hội sở chính là trung tâm điều hành, với 118 đơn vị thành viên (bao gồm 104 chi nhánh, 07 công ty con trung tâm đào tạo, trung tâm công nghệ, và 05 đơn vị liên doanh) cùng một mạng lưới rộng khắp (đứng thứ hai trong hệ thống ngân hàng Việt Nam) với gần 500 chi nhánh, phòng giao dịch, quỹ tiết kiệm, và hàng ngàn máy ATM, máy POS như một kênh phân phối mới, vừa cung cấp các sản phẩm dịch vụ ngân hàng bán buôn bán lẻ của hoạt động Ngân hàng- Bảo hiểm- Chứng khoán và Đầu tư. Bên cạnh đó là tổ chức cán bộ công nhân viên với gần 11.000 người, có tổ chức Đảng mạnh, có hệ thống công đoàn ngành gắn bó chặt chẽ luôn là chỗ dựa vững chắc cho chuyên môn.
Cùng với hệ thống NHTM Việt Nam, BIDV là một trong những ngân hàng có bề dày kinh nghiệm trong hoạt động kinh doanh trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực đầu tư, phục vụ phát triển cơ sở hạ tầng trong nước. Có tốc độ tăng trưởng cao trên nhiều mặt hoạt động, doanh số cho vay tăng nhanh, các hoạt động khai thác kiều hối, mua bán ngoại tệ, thanh toán thẻ tín dụng cũng tăng trưởng tốt.
Về đối ngoại, BIDV đã tham gia góp vốn liên doanh, mua lại vốn góp, liên tục mở quan hệ đại lý với các ngân hàng, tổ chức tài chính nước ngoài. Việc mở rộng quan hệ đối ngoại với các định chế tài chính, các tổ chức quốc tế lớn như WB, EIB, NIB... cũng được đánh giá cao. Nhìn chung BIDV luôn kinh doanh có lãi và tạo được uy tín với các đối tác trong và ngoài nước.
1.2. Bộ máy tổ chức.
BIDV trung ương có một Ban lãnh đạo thuộc Hội đồng quản trị (HĐQT) đưa ra những chiến lược phát triển lâu bền của BIDV trên cơ sở chính sách pháp luật của Nhà nước. Trong BIDV có một sở giao dịch gọi là Hội sở chính của BIDV gồm ban giám đốc điều hành trực tiếp và một đội ngũ cán bộ mạnh, vừa thông thạo nghiệp vụ, vừa có kinh nghiệm trong chỉ đạo điều hành, trình độ chuyên môn cao, biết ngoại ngữ, bước đầu thích nghi với cơ chế thị trường, hoà nhập với nền kinh tế của khu vực và thế giới.
BIDV trung ương được phân làm hai khối:
Khối trung ương gồm các phòng, ban với chức năng quản lý vĩ mô trong toàn hệ thống.
Khối trực tiếp kinh doanh- Sở giao dịch gồm: Ban Giám đốc, phòng tín dụng, phòng thẩm định, phòng kinh doanh đối ngoại và ngân hàng đại lý, phòng tài chính, phòng quản lý tiền tệ...
Với cơ cấu tổ chức và hoạt động của BIDV và Hội sở chính như trên chứng tỏ BIDV là một ngân hàng lớn mạnh, với một sở giao dịch làm việc có hiệu quả cao và là bộ mặt đại diện của toàn hệ thống trước toàn thể khách hàng trong nước và quốc tế.
2. Một số hoạt động chính của BIDV.
2.1. Nguồn vốn.
Nguồn vốn là yếu tố chủ yếu, chiếm tỉ trọng lớn trong tài sản nợ của mọi ngân hàng, là yếu tố đầu vào, quyết định mở rộng cho vay, mở rộng đầu tư, tham gia tích cực vào các thị trường vốn, thị trường tiền tệ, qua đó mở rộng quy mô hoạt động ngân hàng. Những thành quả đạt được của BIDV đến nay có sự đóng góp to lớn của công tác nguồn vốn. Từ một ngân hàng chủ yếu nhận nguồn vốn từ Ngân sách đến nayđã xây dựng được một nguồn vốn vững chắc, đảm bảo nhu cầu kinh doanh, phục vụ đầu tư phát triển, tăng trưởng với tốc độ cao, cơ cấu hợp lý và một nền khách hàng gửi tiền bền vững, gắn bó, truyền thống. Trình độ của công tác điều hành nguồn vốn tiết kiệm, có hiệu quả ngày càng được nâng cao hướng
dần đến các chuẩn mực quốc tế về an toàn hệ thống. Công tác xây dựng nguồn vốn đóng vai trò quyết định đối với toàn bộ hoạt động kinh doanh của BIDV.
2.2. Tín dụng- hoạt động trọng tâm.
Tín dụng bao giờ cũng chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tài sản có của các ngân hàng và là đặc trưng của hoạt động ngân hàng, góp phần phục vụ sản xuất kinh doanh và nâng cao hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Trong quá trình phát triển của BIDV, hoạt động tín dụng mới chỉ phát triển từ năm 1990 và nhất là 10 năm gần đây nhưng lại chứng minh được sức phát triển nhanh chóng và đổi mới mạnh mẽ nhất của BIDV. Mới chỉ hơn 10 năm đã định hình tín dụng BIDV với một sắc thái, đặc điểm riêng, với quy mô đứng thứ hai trong hệ thống ngân hàng Việt Nam, để cùng với toàn ngành ngân hàng cung cấp cho khách hàng thuộc các thành phần kinh tế vốn, các sản phẩm tín dụng đa dạng, góp phần phục vụ đầu tư phát triển, sản xuất kinh doanh, xuất nhập khẩu, thương mại...
Hoạt động tín dụng của BIDV gồm 03 mảng chính là tín dụng đầu tư phát triển, tín dụng ngắn hạn và bảo lãnh.
2.3. Kinh doanh đối ngoại- nhịp cầu hội nhập.
Năm 1990, trong xu thế đổi mới của đất nước và ngành ngân hàng Việt Nam, BIDV cũng bắt đầu hình thành nhiệm vụ mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế trong hoạt động ngân hàng. Qua 15 năm phát triển, đến nay quan hệ hợp tác quốc tế và hoạt động kinh doanh đối ngoại của BIDV đã tiến một bước dài cả về chiều rộng và chiều sâu. Hiệu quả của hợp tác quốc tế và hoạt động kinh doanh đối ngoại không chỉ góp phần vào kết quả kinh doanh mà còn quảng bá thương hiệu, hình ảnh, nâng cao vị thế của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam trong cộng đồng ngân hàng và khách hàng nước ngoài.
2.4. Hoạt động ngân hàng bán buôn và đại lý uỷ thác.
Năm 1993, BIDV bắt đầu hình thành nghiệp vụ uỷ thác( giải ngân, cho vay lại, thu nợ các dự án từ Nguồn hỗ trợ phát triển chính thức- ODA). Đến nay, BIDV là ngân hàng thương mại đầu tiên ở Việt Nam thực hiện nghiệp vụ ngân hàng bán buôn thông qua việc quản lý hai dự án Tài chính Nông thôn I và II do