Tài Trợ Trên Cơ Sở Phương Thức Thanh Toán Nhờ Thu Kèm Chứng Từ.

Hối phiếu là một tờ mệnh lệnh trả tiền vô điều kiện do một người ký phát cho người khác yêu cầu ngưòi này khi nhìn thấy hối phiếu, hoặc đến một ngày xác định trong tương lai phải trả một số tiền nhất định cho một người nào đó hoặc theo lệnh của người nay trả cho người khác hoặc trả cho người cầm phiếu.[1]

Theo Pháp lệnh thương phiếu của Việt Nam thì hối phiếu được định nghĩa như sau:”Hối phiếu là chứng chỉ có giá do người ký phát lập, yêu cầu người bị ký phát thanh toán không điều kiện một số tiền xác định khi có yêu cầu hoặc vào một thời gian nhất định trong tương lai cho người thụ hưởng”.[2]

Qua khái niệm trên có thể thấy hối phiếu có ba đặc điểm quan trọng:

- Tính trừu tượng của hối phiếu hay tính độc lập của khoản ghi nợ trên hối phiếu. Trên hối phiếu không cần phải ghi nội dung quan hệ tín dụng, tức là nguyên nhân sinh ra việc lập hối phiếu mà chỉ cần ghi rõ số tiền phải trả và những nội dung có liên quan đến việc trả tiền.

- Tính bắt buộc trả tiền: Người trả tiền phải trả tiền theo đúng nội dung ghi trên tờ hối phiếu, không được viện những lý do riêng mà từ chối trả tiền trừ trường hợp hối phiếu được lập ra trái với đạo luật chi phối nó.

- Tính lưu thông: Hối phiếu có thể chuyển nhượng được một hay nhiều lần trong thời hạn hiệu lực của nó.[1]

1.2. Các hình thức tài trợ của ngân hàng trên cơ sở hối phiếu.

1.2.1. Chiết khấu hối phiếu.

Chiết khấu hối phiếu là một dạng tài trợ ngắn hạn của ngân hàng cho người thụ hưởng hối phiếu, theo đó người thụ hưởng chuyển nhượng hối phiếu chưa đáo hạn cho ngân hàng để nhận một số tiền bằng mệnh giá của hối phiếu trừ đi phần lãi chiết khấu và hoa hồng phí.[4]

Trong giao dịch ngoại thương người thụ hưởng giá trị hối phiếu thường là nhà xuất khẩu. Loại tài trợ này giúp cho nhà xuất khẩu có điều kiện thu hồi vốn nhanh chóng đưa vào hoạt động kinh doanh thay vì phải chờ hối phiếu đến hạn thanh toán.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 119 trang tài liệu này.

Tài trợ chiết khấu hối phiếu trong ngoại thương thường áp dụng cho các giao dịch xuất nhập khẩu thanh toán bằng phương thức ghi sổ hoặc nhờ thu, trong đó nhà xuất khẩu cấp tín dụng thương mại ( bán hàng trả chậm) cho nhà nhập khẩu nước ngoài dưới hình thức hối phiếu trả chậm do nhà xuất khẩu ký phát yêu cầu người mua nước ngoài thanh toán khi hối phiếu đến hạn. Để được ngân hàng xem xét tài trợ chiết khấu, hối phiếu trả chậm này phải được nhà nhập khẩu ký chấp nhận trước lên bề mặt hối phiếu, thừa nhận món nợ phải trả ( giá trị hối phiếu) cho người thụ hưởng khi hối phiếu đến hạn thanh toán.

Kỹ thuật tài trợ chiết khấu hối phiếu khá đơn giản. Ngân hàng sẽ mua lại quyền thụ hưởng giá trị hối phiếu khi đến hạn thanh toán từ người thụ hưởng hợp pháp thể hiện trên bề mặt hối phiếu. Số tiền mua lại quyền thụ hưởng này chính là mức tài trợ chiết khấu hối phiếu và được tính bằng phần còn lại của giá trị hối phiếu sau khi trừ đi lãi chiết khấu cùng phí hoa hồng nghiệp vụ.

Hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu của ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam - 3

Md = M x [1- (rd x t/360)] – C

Trong đó: Md là mức tài trợ chiết khấu ngân hàng cấp cho khách hàng M- mệnh giá hối phiếu

t- thời gian còn lại của hối phiếu

rd- lãi suất chiết khấu mà ngân hàng áp dụng C- phí hoa hồng nghiệp vụ

Ta thấy rằng yếu tố quan trọng nhất trong cách tính mức tài trợ chiết khấu là

lãi suất chiết khấu ( rd). Lãi suất này do ngân hàng định kỳ công bố dựa theo lãi suất cơ bản của ngân hàng trung ương và các lãi suất tài trợ đối chiếu khác. Trong tài trợ ngoại thương lãi suất chiết khấu ngân hàng áp dụng có khi cộng thêm khoản tỷ lệ phụ trội nhằm chống đỡ rủi ro tài trợ. Tỷ lệ này phụ thuộc vào khả năng truy đòi khách hàng nhận tài trợ ( nhà xuất khẩu), khả năng thanh toán khi đáo hạn hối phiếu của con nợ ( nhà nhập khẩu), thời hạn hiệu lực còn lại của hối phiếu, mệnh giá và đồng tiền của hối phiếu...[4]

Đối với ngân hàng tài trợ, việc chiết khấu hối phiếu tuy đơn giản nhưng lại chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro, đặc biệt là rủi ro liên quan đến uy tín và khả năng thanh toán của con nợ chấp nhận hối phiếu tức là nhà nhập khẩu nước ngoài.

Chính vì vậy mà ngân hàng thường áp dụng lãi suất chiết khấu ở mức cao và luôn phòng chống rủi ro không thu hồi được tiền khi đáo hạn bằng cách bảo lưu “quyền truy đòi” đối với nhà xuất khẩu đã chuyển nhượng quyền thụ hưởng giá trị hối phiếu.

1.2.2. Chấp nhận hối phiếu.

Tín dụng chấp nhận hối phiếu là khoản tín dụng mà ngân hàng ký chấp nhận hối phiếu. Người vay khoản tín dụng này chính là nhà nhập khẩu và khoản vay chỉ là một hình thức, một sự bảo đảm về tài chính. Thực chất ngân hàng chưa phải xuất tiền thực sự cho người vay như trong chiết khấu hối phiếu. Tuy nhiên, khi đến hạn nếu nhà nhập khẩu không đủ khả năng thanh toán thì ngân hàng chấp nhận hối phiếu phải trả nợ thay. Sự phát sinh tín dụng chấp nhận hối phiếu là do bên bán thiếu tin tưởng khả năng thanh toán của bên mua và họ đề nghị bên mua yêu cầu một ngân hàng đứng ra chập nhận trả tiền hối phiếu do bên bán ký phát.


Khi cấp tín dụng dưới dạng chấp nhận hối phiếu, ngân hàng không phải xuất vốn của mình mà chỉ phải trả tiền hối phiếu khi đến hạn, sau đó ngân hàng sẽ đòi lại tiền từ nhà nhập khẩu. Trong trường hợp này, ngân hàng phải sử dụng vốn của mình, phải chịu mọi rủi ro và tổn thất xảy ra với hối phiếu do vậy ngân hàng thường thu phí chấp nhận cao. Nếu nhà nhập khẩu chuyển vốn đến cho ngân hàng để trả tiền thì họ chỉ phải trả thủ tục phí chấp nhận còn nếu ngân hàng dùng vốn của mình trả tiền thì nhà nhập khẩu còn phải trả lãi vay vốn.[1]

Một hình thức cũng tương đối phổ biến trong ngoại thương là tái chấp nhận ( Reimbursement Acceptance). Tái chấp nhận là một hình thức chấp nhận trong đó người xuất khẩu không chuyển hối phiếu đến ngân hàng phục vụ người nhập khẩu yêu cầu chấp nhận trả tiền mà chuyển đến một ngân hàng hạng nhất mà hai bên đã thoả thuận yêu cầu chấp nhận.

1.2.3. Cho vay bằng “kỳ phiếu của nhà nhập khẩu”.

Kỳ phiếu ( Promissory note) là một tờ giấy hứa cam kết trả tiền vô điều kiện do người lập phiếu phát ra hứa trả một số tiền nhất định cho người hưởng lợi hoặc theo lệnh của người này trả cho người khác quy định trong kỳ phiếu đó.[1]

Trong loại tài trợ này, theo yêu cầu của nhà nhập khẩu, ngân hàng đứng ra thanh toán những hối phiếu của người xuất khẩu với điều kiện người nhập khẩu ký phát kỳ phiếu trả tiền cho ngân hàng. Số tiền của kỳ phiếu lớn hơn số tiền của hối phiếu, khoản chênh lệch này là lợi tức sinh ra kể từ ngày ngân hàng trả tiền hối phiếu đến ngày trả tiền của kỳ phiếu.

2. Tài trợ trên cơ sở phương thức thanh toán nhờ thu kèm chứng từ.

2.1. Khái niệm phương thức thanh toán nhờ thu kèm chứng từ.

Phương thức nhờ thu kèm chứng từ là một phương thức thanh toán trong đó người bán sau khi hoàn thành nghĩa vụ giao hàng hoặc cung ứng dịch vụ cho khách hàng, uỷ thác cho ngân hàng của mình thu hộ số tiền ở người mua, không những căn cứ vào hối phiếu do người bán ký phát mà còn căn cứ vào bộ chứng từ gửi hàng kèm theo điều kiện nếu người mua trả tiền hoặc chấp nhận trả tiền hối phiếu thì ngân hàng mới trao bộ chứng từ gửi hàng để người mua đi nhận hàng.[1]

Ngân hàng xử lý nghiệp vụ nhờ thu chỉ trên cơ sở chứng từ và hoàn toàn độc lập với giao dịch mua bán hàng hoá giữa nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu.

2.2. Các hình thức tài trợ của ngân hàng trên cơ sở phương thức nhờ thukèm chứng từ.

Trong phương thức thanh toán nhờ thu nhà xuất khẩu thường phải chờ đợi một thời gian đáng kể từ lúc giao hàng xuống tàu tại cảng xuất khẩu cho đến khi nhận được tiền thanh toán từ người mua nước ngoài chuyển về thông qua các ngân hàng. Không những thế, để bán được hàng, nhà xuất khẩu đôi khi phải chấp nhận điều kiện D/A ( chứng từ đổi lấy việc chấp nhận thanh toán), nghĩa là cho phép người mua được trả chậm tiền hàng. Chính vì thế, nhà xuất khẩu có thể gặp phải những khó khăn về vốn kinh doanh khi sử dụng phương thức thanh toán nhờ thu. Để có thể nhận được tiền hàng sớm hơn, nhà xuất khẩu phải cần đến dịch vụ tài trợ của ngân hàng.

Nhà xuất khẩu khi ký hợp đồng mua bán có thể ký theo điều kiện “thanh toán khi xuất trình chứng từ gửi hàng” sau đó lại ký tiếp hợp đồng cung ứng cho khách hàng khác ở nước ngoài theo điều kiện “thanh toán sau khi nhận hàng 30 ngày”, như vậy sẽ nảy sinh nhu cầu tài trợ giữa chừng nếu nhà nhập khẩu đó thiếu vốn.

2.2.1. Đối với nhờ thu đến trong thanh toán hàng nhập.

Ngân hàng tiếp nhận bộ chứng từ từ ngân hàng nước ngoài, chuyển hối phiếu đòi tiền đến cho nhà nhập khẩu. Nếu tới thời hạn trả tiền của hối phiếu mà nhà nhập khẩu chưa tập hợp đủ tiền để thanh toán thì ngân hàng tài trợ bằng cách cho vay thanh toán hàng nhập. Nếu hối phiếu đòi tiền là hối phiếu kỳ hạn mà yêu cầu chấp nhận, ngân hàng có thể thay nhà nhập khẩu ký chấp nhận hối phiếu. Khi đó mức độ đảm bảo được trả tiền khi tới hạn của tờ hối phiếu sẽ rất cao vì đó là sự cam kết của ngân hàng chứ không phải của nhà nhập khẩu.

2.2.2. Đối với nhờ thu đi trong thanh toán hàng xuất.

Nhà xuất khẩu có thể chuyển nhượng quyền lợi từ sự uỷ nhiệm cho ngân hàng thu chứng từ, và nếu ngân hàng chấp nhận ứng trước tiền hàng trước khi thu tiền về từ ngân hàng nước ngoài (ngân hàng nhà nhập khẩu) thì có nghĩa là nó tài trợ cho nhà xuất khẩu một khoản tín dụng tương đương với giá trị của khoản chuyển nhượng. Nhưng giá trị của khoản chuyển nhượng này phụ thuộc rất lớn vào khả năng thanh toán của người vay tín dụng vì không có sự bảo đảm chắc chắn rằng các chứng từ của người phải thanh toán (nhà nhập khẩu) được chấp nhận và nó phụ thuộc vào giá trị hàng hoá được thanh toán.

Khi xem xét yêu cầu tài trợ bộ chứng từ nhờ thu ngân hàng thường đặc biệt quan tâm đến các yếu tố: uy tín của nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu, quy chế quản lý hối đoái ở nước nhập khẩu, khả năng thanh lý hàng hóa nếu bị từ chối thanh toán trong điều kiện D/P, việc chấp nhận thanh toán hối phiếu của nhà nhập khẩu có được bảo lãnh hay không theo điều kiện D/A, bộ chứng từ có xác lập đầy đủ quyền sở hữu với hàng hóa.

3. Tài trợ trên cơ sở phương thức thanh toán tín dụng chứng từ.

3.1. Khái niệm phương thức thanh toán tín dụng chứng từ.

Truyền thống thương mại quốc tế, đặc biệt là trong thời đại bùng nổ ngoại thương như hiện nay cho thấy uy tín và khả năng thanh toán của nhà nhập khẩu là một trong những trở ngại lớn cho sự thành công của thương vụ. Do nhà xuất khẩu thiếu thông tin về năng lực kinh doanh và tình hình tài chính bên mua cũng như do sự khác biệt về môi trường kinh tế, chính trị, pháp lý, ngôn ngữ, văn hoá nên nhà nhập khẩu rất khó thực hiện một phân tích tín dụng đầy đủ và chính xác, và vì thế mà khó lòng bán hàng cho nhà nhập khẩu, đặc biệt là khi bán hàng trả chậm.

Để thuyết phục nhà xuất khẩu tin tưởng thực hiện giao hàng, nhà nhập khẩu phải tìm kiếm một giải pháp nâng cao uy tín và khả năng thanh toán của mình một cách chắc chắn trước đòi hỏi của nhà xuất khẩu. Phương thức tín dụng chứng từ ra đời đáp ứng yêu cầu đó.

Phương thức tín dụng chứng từ là một sự thoả thuận trong đó ngân hàng theo yêu cầu của nhà nhập khẩu (người yêu cầu mở thư tín dụng) sẽ trả một số tiền nhất định cho nhà xuất khẩu (người hưởng lợi thư tín dụng) hoặc chấp nhận hối phiếu do nhà nhập khẩu ký phát trong phạm vi số tiền đó với điều kiện nhà xuất khẩu xuất trình cho ngân hàng bộ chứng từ thanh toán phù hợp với những yêu cầu đề ra trong thư tín dụng.

Tín dụng chứng từ không chỉ được xem là một dạng thức thanh toán quốc tế an toàn và chặt chẽ nhất hiện nay mà còn là một phương thức tài trợ đảm bảo uy tín thanh toán của ngân hàng dành cho nhà nhập khẩu. Với tín dụng chứng từ, ngân hàng thay nhà nhập khẩu cam kết chịu trách nhiệm thanh toán cho nhà xuất khẩu trong thời hạn xác định khi các điều kiện quy định được đáp ứng hoàn toàn phù hợp. Điều này giúp nhà xuất khẩu an tâm bán hàng, hoàn thành trách nhiệm theo hợp đồng.

3.2. Các hình thức tài trợ của ngân hàng trên cơ sở phương thức thanh toántín dụng chứng từ.

3.2.1. Phát hành thư tín dụng.

Mọi L/C đều được mở theo yêu cầu của nhà nhập khẩu. Khi đồng ý mở L/C cho nhà nhập khẩu có nghĩa là ngân hàng cam kết thanh toán cho người hưởng lợi L/C nếu bộ chứng từ hợp lệ được xuất trình. Việc mở L/C đã thể hiện sự tài trợ của ngân hàng cho nhà nhập khẩu. Ngân hàng sẽ phải gánh chịu rủi ro nếu như nhà nhập khẩu không có khả năng thanh toán bởi khi đó ngân hàng sẽ phải thanh toán cho phía nước ngoài (nhà xuất khẩu) theo đúng L/C quy định để giữ uy tín của chính ngân hàng.

Việc ký quỹ mở L/C là cần thiết để hạn chế rủi ro mà ngân hàng phải gánh chịu khi mở L/C cho khách hàng nhất là đối với những L/C trả chậm đồng thời để đảm bảo rằng khách hàng có năng lực nhất định về vốn và ràng buộc việc thanh toán. Khoản tiền ký quỹ sau đó sẽ bị phong toả tại ngân hàng, điều này thường gây bất lợi cho nhà nhập khẩu vì vốn lưu động bị thu hẹp và một phần nằm ở ngân hàng mà không sử dụng được, đặc biệt là những ngân hàng yêu cầu ký quỹ 100% giá trị L/C. Trong thực tế các ngân hàng phân loại khách hàng theo khả năng thanh toán, theo quan hệ với ngân hàng và quyết định mức ký quỹ.

3.2.2. Xác nhận thư tín dụng.

Trong thực tế, có khi uy tín của ngân hàng phát hành vẫn chưa đủ cho nhà xuất khẩu tin tưởng vào việc thanh toán tiền hàng, hoặc cũng có khi nhà xuất khẩu cảm thấy lo ngại về rủi ro quốc gia của nhà nhập khẩu và ngân hàng phát hành. Khi ấy nhà xuất khẩu có thể yêu cầu có thêm một cam kết thanh toán của một ngân hàng khác, thường là một ngân hàng có uy tín cao, có hiệu lực pháp lý tương đương với cam kết thanh toán của ngân hàng phát hành L/C. Cam kết thanh toán thứ hai dựa theo L/C phát hành này biểu hiện trong thực tế qua nghiệp vụ tài trợ xác nhận L/C của ngân hàng ở nước xuất khẩu.

Xét về mặt bản chất, việc ký xác nhận vào L/C phát hành của ngân hàng ở nước xuất khẩu là một nghiệp vụ bảo lãnh cho uy tín thanh toán của ngân hàng phát hành, nghĩa là thuộc dạng tài trợ liên ngân hàng. Do nghiệp vụ xác nhận L/C tạo nên một cam kết thanh toán của ngân hàng có hiệu lực tương đương cam kết của ngân hàng phát hành nên mức phí xác nhận cũng được xác định ngang bằng với phí cam kết phát hành L/C.

Khi thực hiện nghiệp vụ tài trợ này, ngân hàng xác nhận đã đảm nhận trước nhà xuất khẩu tất cả rủi ro liên quan đến uy tín và khả năng thanh toán của nhà nhập khẩu, của ngân hàng phát hành và cả rủi ro quốc gia của nhà nhập khẩu. Sự phụ thuộc giữa các bên tham gia vào cơ chế giao dịch tín dụng chứng từ vừa là một ưu thế nổi bật của cơ chế này, vừa là một cơ sở sản sinh rủi ro dây chuyền đáng lo ngại. Chính vì thế, ngân hàng phải hết sức tỉnh táo trong việc xem xét yêu cầu của nhà xuất khẩu cũng như của ngân hàng phát hành vê việc tài trợ xác nhận L/C. Trong thực tế, ngân hàng xác nhận thường có mối quan hệ đại lý với ngân hàng phát hành và có thể cấp cho ngân hàng phát hành một hạn mức tín dụng nhất định, đó sẽ là một cơ sở quan trọng để ngân hàng quyết định có nên bước vào giao dịch xác nhận L/C hay không. Một số ngân hàng xác nhận cũng áp dụng những biện pháp đảm bảo an toàn khác trong xác nhận L/C chẳng hạn như đòi hỏi ngân hàng phát hành ký quỹ một phần hoặc toàn bộ giá trị L/C trước khi thực hiện tài trợ xác nhận.

3.2.3. Chiết khấu bộ chứng từ thanh toán theo L/C.

Trong trường hợp hợp đồng ngoại thương quy định phương thức thanh toán dùng L/C trả chậm thì sau khi giao hàng nhà xuất khẩu phải mất một thời gian đúng bằng thời gian trả chậm mới có thể nhận được tiền hàng từ phía nhà nhập khẩu. Nhưng trong khoảng thời gian đó anh ta lại cần vốn để tiếp tục sản xuất kinh doanh. Khi đó anh ta có thể đem bộ chứng từ gửi hàng đến xin chiết khấu tại ngân hàng. Chiết khấu bộ chứng từ là hình thức ngân hàng tài trợ cho nhà xuất khẩu thông qua việc mua lại trước thời hạn thanh toán bộ chứng từ hoàn hảo do nhà xuất khẩu xuất trình.

Nghiệp vụ tài trợ này cũng tương tự như tài trợ chiết khấu bộ chứng từ nhờ thu chỉ khác ở chỗ hối phiếu trong giao dịch tín dụng chứng từ luôn được nhà xuất khẩu ký phát cho ngân hàng phát hành. Trong thực tế có hai hình thức chiết khấu:

- Chiết khấu miễn truy đòi (chiết khấu đóng): Ngân hàng mua lại bộ chứng từ xuất khẩu hoàn hảo của nhà xuất khẩu. Giá mua sẽ thấp hơn giá trị bộ chứng từ (để tính trừ lại chi phí chiết khấu và thời gian cần thiết trung bình để đòi tiền người nhập khẩu nước ngoài). Chiết khấu miễn truy đòi có nghĩa là người xuất

Xem tất cả 119 trang.

Ngày đăng: 09/04/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí