Bốn là, quy trình, trình tự, thủ tục xuất cấp hàng DTQG đã được quy định cụ thể tại Thông tư số 51/2020/TT-BTC ngày 02/6/2020 của Bộ trưởng Bộ Tài chính; tuy nhiên, một số địa phương khi tổng hợp, báo cáo cấp có thẩm quyền xuất cấp hàng DTQG vẫn chưa tuân thủ theo đúng trình tự, hồ sơ quy định; nhiều địa phương tính toán nhu cầu xuất cấp chưa sát với thực tế. Đối với việc phối hợp với địa phương nhận gạo còn thiếu sự liên kết, bám sát công việc dẫn đến việc rà soát đối tượng còn chưa kịp thời, thời gian tổ chức giao nhận ngắn hơn so với thời gian được Tổng cục DTNN quy định ảnh hưởng đến công tác tổ chức giao nhận, vận chuyển… Việc báo cáo kết quả thực hiện chưa được kịp thời.
Năm là, quản lý, sử dụng hàng DTQG sau xuất cấp còn bất cập: Pháp luật DTQG quy định, hàng DTQG sau xuất cấp phải được sử dụng đúng mục đích, đúng đối tượng, đúng định mức và phân định trách nhiệm giữa đơn vị DTQG và đơn vị tiếp nhận, trực tiếp phân phối, sử dụng hàng DTQG trong quản lý, sử dụng hàng sau xuất cấp. Tuy nhiên, trên thực tế, việc quản lý, sử dụng hàng DTQG sau xuất cấp có nơi, có lúc còn thiếu chặt chẽ; Việc bảo quản hàng DTQG sau xuất cấp trước khi đến tay đối tượng sử dụng chưa được chú trọng, nên ít nhiều đã ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng nguồn lực DTQG.
Sáu là, công tác khảo sát, lập dự toán mua sắm máy móc chuyên dùng chưa sát với thực tế nên các yêu cầu kỹ thuật đưa ra chưa phù hợp (độ cao băng tải không phù hợp với hệ thống cửa kho) dẫn tới việc chưa khai thác hết công năng sử dụng của một số tài sản phục vụ công tác nhập xuất như xe nâng hàng, băng tải di động… Bảy là, một số cán bộ được phân công thực hiện công tác kiểm tra nội bộ
cũng còn hạn chế về kỹ năng, nghiệp vụ, còn chưa chuyên sâu về công tác kiểm tra nên chất lượng, hiệu quả trong công tác kiểm tra chưa cao.
Tám là, hình thức phổ biến pháp luật chưa đa dạng, chủ yếu vẫn là hình thức viết bài giới thiệu trên các phương tiện truyền thông của Tổng cục; việc tổ chức các hội nghị tập huấn, các lớp bồi dưỡng kiến thức pháp luật còn hạn chế.
CHƯƠNG 3
ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN QUẢN LÝ DỰ TRỮ QUỐC GIA KHU VỰC NGHỆ TĨNH
Có thể bạn quan tâm!
- Bảng Tổng Hợp Số Lượng Nhập Tăng Nguồn Lực Dtqg Giai Đoạn 2015-2019
- Bảng Tổng Hợp Số Liệu Quyết Toán Các Nguồn Kinh Phí Giai Đoạn 2015-2019
- Nguyên Nhân Của Hạn Chế Nguyên Nhân Khách Quan:
- Hoàn thiện quản lý dự trữ quốc gia khu vực Nghệ Tĩnh - 12
- Hoàn thiện quản lý dự trữ quốc gia khu vực Nghệ Tĩnh - 13
Xem toàn bộ 106 trang tài liệu này.
3.1 Quan điểm, mục tiêu và chiến lược về Dự trữ quốc gia
3.1.1 Quan điểm Dự trữ quốc gia
Theo Chiến lược phát triển DTQG đến năm 2020 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 2091/QĐ-TTg ngày 28/12/2012, thì quan điểm DTQG là:
“DTQG là nguồn dự trữ chiến lược của Nhà nước để phòng ngừa và khắc phục có hiệu quả các tổn thất, bất trắc xảy ra đối với đời sống xã hội, an ninh, quốc phòng và hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Hoạt động DTQG có vị trí và vai trò quan trọng trong việc phát triển bền vững, bảo đảm ổn định chính trị, kinh tế - xã hội của đất nước khi có xảy ra thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh, địch họa và tham gia bình ổn thị trường khi có tình huống đột biến xảy ra; hoạt động DTQG luôn được phát triển và đổi mới, phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và tiến trình hội nhập quốc tế.
Xã hội hóa hoạt động DTQG: cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang và mọi tầng lớp nhân dân có nghĩa vụ và trách nhiệm tham gia hoạt động DTQG, đảm bảo sẵn sàng, chủ động đối phó với mọi tình huống cấp bách, dưới sự chỉ đạo, điều hành tập trung, thống nhất của Nhà nước với phương châm “4 tại chỗ”; đáp ứng kịp thời khi tình huống xảy ra.
Chi tăng DTQG hàng năm thuộc ngân sách trung ương theo quy định của pháp luật.
Quỹ DTQG bằng hiện vật; được quản lý, sử dụng hiệu quả, đúng mục đích; sau khi xuất ra phải được bù lại đầy đủ, kịp thời.
Hàng DTQG được bố trí ở các khu vực, địa bàn chiến lược trong cả nước, với những mặt hàng phù hợp, kịp thời đáp ứng yêu cầu trong mọi tình huống đột xuất, cấp bách”.
3.1.2 Mục tiêu Dự trữ quốc gia
Theo Chiến lược phát triển DTQG đến năm 2020:
Mục tiêu tổng quát:
Sẵn sàng đáp ứng yêu cầu cấp bách về phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh; phục vụ động viên công nghiệp; đảm bảo an ninh lương thực, an ninh năng lượng; bảo đảm quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội; tham gia bình ổn thị trường, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, phát triển kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội và thực hiện các nhiệm vụ cấp bách khác.
Mục tiêu cụ thể:
- Danh mục, số lượng hàng DTQG đảm bảo yêu cầu thiết yếu, chiến lược, quan trọng và có quy mô đủ mạnh để can thiệp khi có tình huống cấp bách.
- Hiện đại hóa công nghệ bảo quản, nghiên cứu, chuyển giao, áp dụng công nghệ bảo quản tiên tiến của các nước trong khu vực, phù hợp với điều kiện khí hậu và kinh tế - xã hội của Việt Nam nhằm bảo đảm chất lượng hàng DTQG và nâng cao hiệu quả công tác bảo quản.
- Hoàn chỉnh hệ thống kho DTQG với trang thiết bị hiện đại, quy mô tập trung, đảm bảo hình thành các vùng, tuyến chiến lược phù hợp với điều kiện về kinh tế, quốc phòng của vùng, lãnh thổ.
- Hệ thống thông tin thông suốt trong hoạt động DTQG, bảo đảm tin học hóa 100% quy trình quản lý nghiệp vụ nhập, xuất, bảo quản.
- Phát triển nguồn nhân lực DTQG bảo đảm đủ về số lượng, có cơ cấu hợp lý, có phẩm chất chính trị và năng lực công tác đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý theo hướng tập trung thống nhất một cơ quan QLNN về DTQG.
Theo Luật DTQG số 22/2012/QH13, thì mục tiêu của DTQG là: Nhà nước hình thành, sử dụng DTQG nhằm chủ động đáp ứng yêu cầu đột xuất, cấp bách về phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, thảm họa, hỏa hoạn, dịch bệnh; phục vụ quốc phòng, an ninh.
3.1.3 Chiến lược về Dự trữ quốc gia
Hiện nay, chiến lược phát triển DTQG mới được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đến năm 2020, bao gồm những định hướng chủ yếu sau:
Mức DTQG
Tăng cường tiềm lực DTQG, đảm bảo đến năm 2015, tổng mức DTQG đạt khoảng 0,8 - 1% GDP và đến năm 2020 đạt khoảng 1,5% GDP.
Quỹ DTQG bằng hiện vật
- Về danh mục mặt hàng:
Đến năm 2020, tiếp tục rà soát, sắp xếp, hoàn thiện về cơ cấu danh mục hàng DTQG theo hướng tập trung vào những mặt hàng chiến lược, thiết yếu, quan trọng, không dàn trải; tập trung nguồn lực ngân sách mua tăng các danh mục để đáp ứng mục tiêu của DTQG.
Trên cơ sở các danh mục mặt hàng đã được quy định tại Quyết định số 139/2007/QĐ-TTg ngày 23 tháng 8 năm 2007 của Thủ tướng Chính phủ, để đáp ứng nhu cầu trong tình hình mới, Chiến lược phát triển DTQG đến năm 2020 xác định 5 nhóm mặt hàng, cụ thể như sau:
+ Nhóm hàng bảo đảm an ninh kinh tế, an sinh xã hội.
+ Nhóm hàng phục vụ ứng phó thiên tai, thảm họa và tìm kiếm cứu nạn.
+ Nhóm hàng phục vụ an ninh, quốc phòng, bảo vệ biên giới, biển, đảo và động viên công nghiệp.
+ Nhóm hàng phòng, chống dịch bệnh và cấp cứu cho người.
+ Nhóm hàng phòng, chống dịch bệnh cho vật nuôi và cây trồng.
Hàng năm, căn cứ tình hình cụ thể để quyết định mua tăng những mặt hàng trong danh mục đưa vào DTQG và đề xuất bổ sung những mặt hàng thiết yếu, chiến lược mới vào danh mục hàng DTQG.
- Về mức dự trữ một số mặt hàng thiết yếu đến năm 2020:
+ Lương thực: đến năm 2015, giữ mức ổn định khoảng 500.000 tấn (quy thóc); sau năm 2015, căn cứ tình hình thực tế để quyết định mức tăng cụ thể.
+ Xăng dầu: đáp ứng nhu cầu cho 10 ngày sử dụng (khoảng 500.000 m3, tấn xăng dầu thành phẩm) và 700.000 tấn dầu thô.
+ Vật tư, trang thiết bị ứng phó thiên tai, thảm họa và tìm kiếm cứu nạn: đạt mức theo quy định tại Phụ lục ban hành kèm theo Quyết định số 46/2006/QĐ-TTg ngày 28 tháng 2 năm 2006 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án quy hoạch tổng thể lĩnh vực tìm kiếm cứu nạn đến năm 2015, tầm nhìn đến năm 2020.
+ Muối trắng: dự trữ phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng khoảng 130.000 tấn.
+ Các mặt hàng nông nghiệp:
++ Hạt giống cây trồng các loại: hạt giống lúa đạt 10.000 tấn/năm, hạt giống ngô 1.500 tấn/năm, hạt giống rau 130 tấn/năm.
++ Thuốc bảo vệ thực vật: DTQG giữ mức ổn định khoảng 600 tấn.
++ Về vắc-xin thuốc thú y, thuốc sát trùng các loại: vắc-xin đạt 10.000.000 liều, thuốc sát trùng phòng chống dịch bệnh gia súc 1.000.000 lít và thuốc sát trùng phòng bệnh thủy sản 2.000 tấn.
+ Dự trữ các trang thiết bị y tế và hóa chất khử khuẩn, khử trùng đáp ứng nhu cầu phòng, chống, cấp cứu cho người tại các vùng xảy ra thiên tai, dịch bệnh.
+ Đối với các mặt hàng phục vụ quốc phòng, an ninh, trang thiết bị đảm bảo giao thông, vận tải: căn cứ vào tình hình quốc phòng, an ninh và khả năng ngân sách nhà nước trong từng năm, từng giai đoạn để bố trí kế hoạch tăng DTQG theo hướng ưu tiên dự trữ các mặt hàng đảm bảo quốc phòng, an ninh với mức bố trí tăng trưởng cao hơn mức bình quân chung của toàn ngành; đảm bảo đáp ứng yêu cầu giữ gìn quốc phòng, an ninh trật tự, an toàn xã hội và toàn vẹn lãnh thổ.
- Công nghệ bảo quản hàng DTQG:
Nghiên cứu, áp dụng công nghệ tiên tiến vào bảo quản hàng DTQG, chuyển giao công nghệ bảo quản tiên tiến của các nước trong khu vực nhằm bảo đảm chất lượng hàng DTQG; cơ giới hóa trong quá trình nhập, xuất, bảo quản nhằm kéo dài hơn thời hạn bảo quản, hạ thấp tỷ lệ hao hụt, nâng cao năng suất lao động và bảo vệ môi trường. Đối với bảo quản lương thực, đến năm 2020, kéo dài thời hạn bảo quản gấp 1,5 lần so với năm 2010.
Hoàn chỉnh hệ thống Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia, định mức KT-KT DTQG, phù hợp hệ thống tiêu chuẩn Việt Nam và quốc tế.
- Về kho chứa hàng DTQG:
Xây dựng các điểm kho DTQG theo quy hoạch tổng thể kho DTNN đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 94/QĐ-TTg ngày 17 tháng 01 năm 2011. Kho bảo quản hàng dự trữ phải phù hợp với công nghệ bảo quản từng loại hàng, nhóm hàng. Hàng DTQG phải có kho bảo quản riêng hoặc phải bảo quản riêng lô, ngăn, bồn, bể...
- Phát triển công nghệ thông tin đáp ứng hiện đại hóa ngành DTQG: xây dựng một hệ thống thông tin thống nhất trong hệ thống DTQG từ Trung ương đến địa phương, bảo đảm tin học hóa toàn bộ quy trình nghiệp vụ; hỗ trợ tốt công tác chỉ đạo, điều hành, quản lý và hoạch định chính sách về DTQG trong từng thời kỳ. Đảm bảo cung cấp các thông tin nhanh chóng, chính xác, kịp thời trong mọi hoạt động DTQG.
Đến nay, Tổng cục DTNN đã hoàn thành việc nghiên cứu, bảo vệ thành công đề tài “Nghiên cứu định hướng Chiến lược DTQG đến năm 2030, tầm nhìn đến 2035” với mục tiêu tìm ra những định hướng chiến lược và giải pháp phát triển DTQG đến năm 2030 phù hợp với quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước và bối cảnh kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng trong tình hình mới. Góp phần nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng nguồn lực DTQG; xây dựng lực lượng DTQG có quy mô đủ mạnh, danh mục mặt hàng thiết yếu, chiến lược để sẵn sàng, chủ động đáp ứng yêu cầu đột xuất, cấp bách về phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, thảm họa, hỏa hoạn, dịch bệnh; phục vụ quốc phòng, an ninh và các yêu cầu về ổn định sản xuất và đời sống theo sự điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. Bên cạnh đó, đã hệ thống hóa những vấn đề cơ bản về dự trữ, các hình thái dự trữ trong nền kinh tế quốc dân. Đặc biệt, kết quả của đề tài nghiên cứu khoa học này sẽ làm cơ sở để Tổng cục DTNN tham mưu với Bộ Tài chính trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển DTQG đến năm 2030, định hướng đến năm 2035 theo đúng lộ trình đề ra tại Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 01/1/2019
của Chính phủ về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu chỉ đạo điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2019: “Đến năm 2025 mức DTQG đạt 0,8-1,0%GDP; đến năm 2035, mức DTQG đạt 1,5% GDP; đến năm 2045, mức DTQG đạt 2%GDP”.
3.2 Một số giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý Dự trữ quốc gia khu vực Nghệ Tĩnh
3.2.1 Về tham gia ý kiến vào các dự thảo sửa đổi, bổ sung cơ chế chính
sách
Cần coi trọng công tác lãnh đạo, chỉ đạo đối với tham gia ý kiến xây dựng
chính sách, pháp luật; đầu tư nghiên cứu dự thảo để có ý kiến một cách chất lượng, đúng thời hạn... Chủ động, thường xuyên rà soát các quy định của Luật DTQG, các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thực hiện Luật, các quy định; phân công cán bộ phòng nghiệp vụ cập nhật, so sánh, đối chiếu với quy định pháp luật các lĩnh vực khác có liên quan như: Pháp luật phòng chống thiên tai, pháp luật PCCC; pháp luật về an ninh, quốc phòng; pháp luật về tiêu chuẩn quy chuẩn; pháp luật về quản lý ngân sách; pháp luật về quản lý sử dụng tài sản công; pháp luật về đấu thầu; pháp luật về đấu giá…. Trên cơ sở đó, tổng hợp vướng mắc trong thực tiễn triển khai thực hiện để phát hiện những điểm mâu thuẫn, thiếu đồng bộ, cần hoàn thiện để báo cáo Tổng cục DTNN theo 2 tiêu chí: đảm bảo thống nhất với hệ thống pháp luật chung và phù hợp với thực tiễn, tính chất, đặc thù của hoạt động DTQG.
3.2.2 Về công tác quản lý chất lượng hàng Dự trữ quốc gia
Thực hiện tốt nhiệm vụ quản lý chất lượng hàng hóa thông qua thanh tra, kiểm tra hàng hóa ngay từ khi nhập kho, trong quá trình bảo quản và xuất kho; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát chất lượng hàng hóa, nắm bắt kịp thời diễn biến chất lượng hàng hóa từ khi nhập kho đến khi xuất kho; chỉ đạo các đơn vị thuộc Cục có biện pháp khắc phục kịp thời khi có sự cố, đảm bảo chất lượng hàng hóa trong quá trình lưu kho bảo quản.
Động viên CBCC tham gia công tác nghiên cứu khoa học, tham gia các đề tài khoa học, quản lý gắn với công tác xây dựng QCVN và định mức KT-KT hàng DTQG.
3.2.3 Rà soát quy hoạch kho tàng theo hướng hiện đại, tập trung
Trên cơ sở quy hoạch tổng thể hệ thống kho DTQG đã được Bộ trưởng Bộ Tài chính đã phê duyệt Quy hoạch chi tiết hệ thống kho DTQG thuộc Tổng cục DTNN đến năm 2020. Với quy hoạch chi tiết hệ thống kho DTNN được phê duyệt đầu tư 7 điểm kho dự trữ (5 điểm kho lương thực, 2 điểm kho muối), trong đó có 4 điểm kho đóng trên địa bàn tỉnh Nghệ An, 3 điểm kho đóng trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh
Đến nay, một số kho đã được ĐTXD mới theo hướng: Bố trí tập trung, với công suất lớn, với công nghệ bảo quản kho kín, cơ giới hóa trong quá trình nhập, xuất (như kho lương thực, kho vật tư thiết bị tìm kiếm cứu nạn…).
Để tiếp tục thực hiện xây dựng mạng lưới kho bảo đảm tính liên hoàn, phân bố hợp lý về không gian lãnh thổ, kho DTQG phải được quy hoạch, xây dựng phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của từng vùng, bảo đảm quốc phòng, an ninh; phải thuận tiện trong việc nhập, xuất, bảo quản, phòng, chống thiên tai, hoả hoạn, không để xảy ra hư hỏng, mất mát và các nguyên nhân khác gây thiệt hại đến tài sản DTQG cần thiết phải tiến hành rà soát, điều chỉnh, bổ sung trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch chi tiết hệ thống kho DTQG giai đoạn tiếp theo để kịp thời đầu tư, xây dựng đưa vào sử dụng mạng lưới kho tập trung, hiện đại, giảm các đầu mối kho nhỏ, lẻ.
3.2.4 Hoàn thiện công tác tổ chức bộ máy, cán bộ
Nghiên cứu, xây dựng phương án sắp xếp lại hệ thống Chi cục DTNN thuộc Cục DTNN khu vực, bảo đảm đến hết năm 2025 còn 5 Chi cục DTNN thuộc Cục theo quy hoạch hệ thống kho DTQG được cấp có thẩm quyền phê duyệt, gắn việc sắp xếp tổ chức bộ máy với tinh giản biên chế, từng bước đổi mới phương thức quản lý, nâng cao chất lượng đội ngũ công chức, viên chức. Tiếp tục nghiên cứu,